Vòng xoáy chết - Phần 4.3
Quay trở lại văn phòng, Ando kéo một chiếc ghế ra khỏi bàn cạnh bàn Nakayama rồi ngồi xoay lại, tay ôm lưng ghế. Anh ngồi như thể để chờ Nakayama hoàn thành nốt mấy thứ giấy tờ của anh ta.
“Trông cậu có vẻ lo lắng,” Nakayama nói, ngước lên khỏi bản báo cáo đang viết dở.
“Đại khái thế.”
“Có muốn xem báo cáo mổ tử thi không?” Nakayama chỉ vào tập hồ sơ trước mặt Ando.
“Không. Tôi chỉ cần nghe tóm tắt thôi.”
Nakayama nhìn vào mặt Ando.
“Thế thì tôi nói vào điểm chính luôn. Nguyên nhân cái chết không phải là do suy tim gây ra bởi nghẽn động mạch vành.”
Vậy giả thiết mà Ando nói với Nakayama trước khi mổ là sai. Ando yên lặng một lúc, không biết lý giải điều này thế nào. Vậy là Mai không xem cuốn băng? Có lẽ, khối u chưa đủ lớn để làm nghẽn dòng máu.
Anh quyết định cần phải tìm hiểu rõ hơn. “Thế không có khối u nào trong động mạch vành sao?”
“Tôi không thấy khối u nào cả?”
“Anh có chắc chắn không?”
“À, tôi sẽ phải chờ cho đến khi có kết quả xét nghiệm mẫu mô trước khi có thể nói chắc chắn.”
Lúc này, cái khối u báo hiệu đó dường như không có trong động mạch của Mai.
“Vậy thì cái gì đã giết chết cô ấy?”
“Có lẽ là vì lạnh. Cô ấy đã ở trong tình trạng kiệt sức.”
“Còn các chấn thương?”
“Mắt cá chân trái của cô ấy bị vỡ, và có vết xước ở cả hai khuỷu tay. Rất nhiều khả năng cô ấy bị thế khi rơi xuống. Trong các vết thương có vài mẩu vụn của sân bê tông.”
Vậy là cô rơi xuống, chân chạm nền trước, mắt cá bị vỡ, và không thể ra khỏi chỗ đó. Cái khoang rộng khoảng một mét và sâu ba mét, quá sâu khiến cô không thoát được ra ngoài. Cô đã bị mắt kẹt ở đó, chỉ có nước mưa làm cô thoát khỏi khát. Cho dù như thế, cô sẽ chỉ sống thêm được vài ngày.
“Tôi không biết cô ấy sống được bao lâu trong đó.” Đấy không thực sự là một câu hỏi. Anh chỉ nghĩ trong đầu và buột miệng nói ra khi tưởng tượng nỗi sợ hãi và tuyệt vọng của cô lúc ở một mình dưới đáy một cái hố trên sân thượng.
“Tôi đoán khoảng mười ngày.” Dạ dày và ruột cô trống rỗng, lớp mỡ dưới da gần như đã tiêu hết.
“Mười ngày.” Ando mở cuốn sổ của anh ra. Cứ cho rằng cô sống được mười ngày trong cái khoang thông gió, và thêm năm ngày nữa thi thể của cô mới được phát hiện, thì cô mất tích vào khoảng ngày mười tháng Mười một. Ngày Ando hẹn cô là mồng chín; việc cô không trả lời điện thoại cả ngày hôm đó đã đẩy ngày mất tích của cô lùi xa đến chừng ấy. Thực tế, hộp thư của cô có những số báo của ngày mồng tám. Nghĩa là có chuyện gì đó đã xảy đến với cô vào ngày mồng tám hoặc mồng chín khiến cô rời khỏi nhà.
Ando đánh dấu hai ngày này vào lịch.
Điều gì đó đã xảy ra với cô vào khoảng từ ngày tám đến ngày mười tháng Mười một.
Anh cố tưởng tưởng ra chính mình ở chỗ ấy. Khi người ta tìm thấy cô, cô chỉ mặc váy và tấm áo nỉ. Cách ăn mặc ấy gợi ý rằng cô chỉ đi ra ngoài một lúc, có lẽ để hít khí trời. Nhưng thật lạ là cô không mặc quần lót.
Anh nhớ lại những điều cảm thấy khi anh đến căn hộ của cô. Mọi thứ vẫn rõ ràng trong đầu anh. Hôm ấy ngày 15 tháng Mười một. Nếu tin vào kết quả mổ pháp y, thì vào thời điểm đó cô đã rơi vào cái khoang trên sân thượng, và đang chờ đợi được cứu ra. Nói cách khác, cô đã ra khỏi nhà mấy ngày rồi. Nhưng, Ando chắc chắn anh đã cảm nhận được điều gì đó trong căn nhà của cô. Đáng lẽ bị bỏ trống, nhưng anh chắc chắn có cái gì đó biết thở.
“Ồ, và…” Nakayama nói, giơ ngón tay trỏ lên như thể vừa nhớ ra một điều gì quan trọng.
“Cái gì?”
“Anh khá thân thiết với cô ấy phải không, bác sĩ Ando?”
“Không phải thân thiết. Tôi chỉ mới gặp cô ấy hai lần.”
“Ồ. Lần cuối anh gặp cô ấy là bao giờ?”
“Cuối tháng trước, chắc là thế.”
“Nghĩa là khoảng ba tuần trước khi cô ấy chết.” Nakayama như đang ngần ngừ một điều gì quan trọng. Ando nhìn vị đồng nghiệp đàn anh, cái nhìn chằm chằm như muốn nói, Thôi nào, nói đi.
“Cô ấy mang thai, đúng không?” Nakayama cuối cùng thốt ra. Trong một lúc, Ando không chắc anh ta nói gì.
“Ai mang thai?” anh nói.
“Tất nhiên là Mai.” Nakayama vẫn chăm chú quan sát phản ứng bối rối của Ando. “Cậu không biết sao?”
Ando không trả lời.
“Cậu không định nói với tôi rằng đã bỏ qua dấu hiệu rõ ràng của một phụ nữ gần đến kỳ sinh nở chứ.”
“Gần đến kỳ sinh nở?”
Ando chỉ có thể lặp lại lời của Nakayama như một con vẹt. Anh nhìn lên trần và cố nhớ lại chính xác những đường nét trên thân hình Mai. Anh gặp cô một lần trong bộ đồ tang và một lần trong chiếc váy sáng màu. Cả hai bộ trang phục đều bó sát eo và hông, để lọ những đường nét thon thả. Vòng eo thắt đáy lưng ong là một trong những nét quyến rũ nhất của cô. Nhưng không chỉ có thế. Ando cảm nhận được ở cô điều gì thật trinh khiết. Và giờ Nakayama đang cố nói với anh rằng cô ấy mang thai sao? Thậm chí là gần đến kỳ sinh nở?
Không phải anh đã quan sát cô kỹ lưỡng đến mức như thế. Thực sự, anh càng nghĩ về cô, thì hình ảnh của cô càng trở nên mờ dần. Ký ức của anh mờ mịt. Nhưng không, không thể như thế được. Không thể nào cô đã mang thai chín tháng. Bằng chứng là chính mắt anh đã thấy thi thể cô. Bụng cô quá hóp đến mức gần như chạm vào cột sống.
“Cô ấy không thể nào gần đến đế kỳ sinh nở được.”
“Tuy nhiên một số phụ nữ lại như thế. Bụng họ không lớn lắm, thậm chí ở ba tháng cuối.”
“Tuy nhiên, vấn đề không phải là bụng to hay nhỏ. Chính tôi dã nhìn thấy thi thể cô ấy.”
“Cậu hiểu nhầm rồi.” Nakayam xua tay nói. Rồi anh ta dàn bằng chứng ra trước mặt Ando.
“Tử cung mở khá lớn và cô ấy có vết thương nơi nhau thai bị đứt. Âm đạo đầy những chất tiết màu nâu. Và ở phía trong âm đạo, tôi phát hiện có những mẩu thịt nhỏ mà tôi tin là của dây rốn.”
Anh bị mất trí rồi, Ando nghĩ. Nhưng anh không thể tưởng tượng một bác sĩ mổ pháp y nhiều kinh nghiệm như Nakayama lại gặp một lỗi sơ đẳng như thế. Ba mẫu chứng cứ hiện diện nơi thi thể Mai chỉ có thể dẫn đến một kết luận: cô đã sinh không lâu trước khi rơi vào khoang thông gió.
Giả sử việc sinh đẻ của cô là có thật, điều đó có giải thích được cho hành động của cô không? Có lẽ, vào khoảng ngày mồng bảy, cô đã đau đẻ, rồi đến chỗ một bác sĩ sản khoa. Cô đã sinh, nằm năm hoặc sáu ngày trong bệnh viện, rồi làm thủ tục ra viện ngày mười hai hoặc mười ba gì đấy. Có lẽ đứa trẻ chết trong lúc sinh. Trong cơn đau đớn, người mẹ đã đi lang thang cho đến khi thấy mình đứng trên sân thượng một toà nhà, ở đấy cô rơi vào một cái khoang thông gió. Cô sống trong đó được mười ngày. Rồi sáng hôm nay, thi thể của cô được người ta phát hiện ra.
Xét về thời gian, giả thiết đó chấp nhận được. Việc sinh đẻ là lời giải thích hợp lý cho sự biến mất của cô. Và đương nhiên cô hoàn toàn giữ kín chuyện này, không cho mẹ mình biết.
Nhưng Ando không chấp nhận. Thậm chí cứ cho là thể tạng mỗi người khác nhau, bỏ qua việc trông bề ngoài cô không giống người mang thai, thì anh vẫn không thể quên ấn tượng lần họ gặp nhau đầu tiên.
Lần đầu tiên anh nhìn thấy Mai là ngày tại văn phòng này. Ngay trước khi anh mổ cho Ryuji, cô được một viên thanh tra hộ tống đên, người này muốn cô kể cho Ando nghe toàn bộ những gì cô biết về hoàn cảnh cái chết của Ryuji. Cô đã cố ngồi xuống, rồi mất thăng bằng và lấy tay dựa lên chiếc bàn bên cạnh. Nhìn qua, Ando biết rằng cô bị thiếu máu. Anh đã nhận ra vẻ thiếu máu nơi cô và suy luận rằng đó là do cô đang ở kỳ kinh nguyệt. Kết luận của anh được củng cố bằng nét mặt ngại ngùng khi cô nói: “Xin lỗi, chỉ là tô…” Ánh mắt của họ đã nhìn nhau, và giữa họ đã có một thoáng giao tiếp không lời.
Xin đừng lo lắng. Chỉ là chuyện hàng tháng thôi.
Đã hiểu.
Mai đã dùng ánh mắt để thông tin cho anh biết, không muốn làm cho tình huống trở nên quan trọng hóa. Ký ức về việc làm thế nào cô tỏ rõ ý được mà không dùng lời vẫn còn rõ ràng một cách lạ lùng đối với Ando. Anh đã thực hiện cuộc phẫu thuật pháp y cho Ryuji vào ngày hai mốt tháng trước. Thế nghĩa là Mai, vốn được cho là đã sinh nở, đã có kinh chưa đầy một tháng trước khi sinh nở. Tất nhiên chuyện này là không thể.
Có lẽ mình hiểu nhầm mọi chuyện. Từ đó đến giò mình cứ nghĩ đã có sự trao đổi ngầm giữa mình với cô ấy, nhưng có lẽ mình chỉ tưởng bở. Có lẽ mình đã hoàn toàn sai lâm. Nhưng càng nghĩ về chuyện sinh đẻ, anh lại càng không thể tin được. Anh đã tự tin là hiểu được ý của cô.
Tuy nhiên, sự thực mà cuộc mổ pháp y hé lộ ra hoàn toàn trái ngược với nhìn nhận của anh đối với vấn đề.
Ando đứng dậy nói, chỉ vào báo cáo mổ pháp y, “Anh có phiền nếu tôi sao một bản không?” Anh muốn đem về nhà và đọc cẩn thận.
Nakayama đưa tập giấy tờ cho anh. “Cứ tự nhiên.”
“Ồ, còn một điều nữa,” Ando nói thêm. “Anh đã lấy máu chứ?”
“Tất nhiên.”
“Tôi có thể có một chút mẫu máu được không?”
“Một chút à, chắc chắn rồi.”
Ando nhận ra rằng anh phải lập tức xác nhận xem liệu cô có mang virus giồng virus bện đậu mùa không. Nếu anh tìm thấy loại virus ấy trong máu cô, thì đó là bằng chứng cô đã xem cuốn băng. Anh cần xác định xem liệu thảm họa đã xảy đến với cô có nguồn gốc từ cuốn băng kia hay đó là kết quả của một điều gì hoàn toàn không liên quan. Lúc này, tất cả những gì anh có thể làm là góp nhặt dữ liệu, tưmg chút một. Nếu anh có thể làm rõ vai trò của cuốn băng trong chuyện này, có lẽ anh sẽ tiến thêm một bước gần hơn đến việc giải quyết bí ẩn của từ “mutation”.