Vòng xoáy chết - Phần 3.6
Ando đợi Miyashita trước ngân hàng như được dặn. Giờ là buổi tối cuối tuần, ngân hàng đã đóng cửa. Khi những cánh cửa kim loại kéo xuống, khu vực trước ngân hàng trông yên bình một cách kỳ lạ. Bóng đêm ở đây thật dễ chịu, nhưng trong lúc chờ đợi Miyashita xuất hiện, anh không thể xóa đi hình ảnh cô gái ở căn hộ 303 trong đầu.
Anh cố gắng quên, nhưng hình ảnh cô gái đã khắc sau vào võng mạc anh. Suốt từ lúc vừa đi bộ vừa gà gật ngủ từ căn hộ của Mai đến nhà ga, rồi từ ga Tsurumi đến đây, anh vẫn nhìn thấy cô ta trong đầu.
Cô ta là ai?
Lời giải thích hợp lý nhất anh nghĩ ra là chị của Mai vì lo lắng cho cô em nên đã đến thăm. Chính Ando đã gọi điện cho mẹ Mai và cho bà biết sơ qua những gì anh phát hiện được. Nếu Mai có một người chị gái, và nếu cô ấy cũng sống ở Tokyo, thì chẳng có gì lạ khi gặp cô ở căn hộ của Mai.
Nhưng ở cô gái toát ra một vẻ rất khó diễn tả, nó phủ nhận câu trả lời dễ dãi đó. Việc đi cùng thang máy với cô gái khiến Ando rùng mình đến tận đáy tâm can. Cô ta dường như không thuộc về thế giới này, nhưng trông cô ta cũng không giống một bóng ma. Cô ta chắc chắn đã ở đó với anh bằng xương bằng thịt. Nhưng Ando nghĩ anh sẽ dễ dàng chấp nhận hơn nếu cô ta là một hồn ma.
Anh nhìn thấy một luồng sáng phát ra từ sau tòa nhà hỗn hợp văn phòng – chung cư, chiếu thẳng vào anh.
“Ê, Ando!”
Ando nhìn về phía ánh đèn, nhận ra đó là Miyashita đang lao về phía anh trên chiếc xe đạp mini của phụ nữ, có gắn giỏ đựng đồ. Chắc là anh ta mượn xe đạp của vợ.
Với tiếng phanh kít, anh ta dừng lại trước mặt Ando. Miyashita thở dốc đến mức không nói nên lời. Anh ta đứng đó, hai chân giạng ra trên xe, khuỷu tay để trên ghi-đông, đầu ngụp lên ngụp xuống để thở. Ando chưa bao giờ nghĩ sẽ nhìn thấy Miyashita trên một chiếc xe đạp. Vận động sức lực dù chỉ một chút cũng khiến anh ta thở hổn hển.
“Nhanh thế.” Ando đã nghĩ anh sẽ phải chờ ít nhất là mười phút. Miyashita chưa bao giờ đến sớm vì bất cứ chuyện gì cả.
Sau khi dựng xe bên vệ đường trước nhà ga, Miyashita vòng tay qua lưng Ando và dẫn anh vào một ngõ hẻm, trong đó dường như mọi ngôi nhà đều treo đèn lồng đỏ trên mái hiên. Nhịp thở của anh ta cuối cùng đã dịu xuống một chút, và khi họ đang đi, anh ta nói với Ando.
“Tôi nghĩ tôi biết ‘mutation’ có nghĩa là gì rồi.”
Điều đó giải thích tại sao Miyashita lại đi xe đạp đến. Anh ta nóng lòng muốn cho Ando biết.
“Nghĩa là gì?”
“Uống bia trước đã.”
Khi họ ngồi xuống dưới mái hiên một cửa hàng, Ando để ý đó là cửa hàng Lưỡi Bò. Miyashita không bận tâm hỏi Ando muốn dùng gì, thay vì thế, ngay khi họ vào quán, anh ta gọi hai cốc bia tươi và món lưỡi bò ướp muối. Hình như Miyashita quen chủ quán. Họ chào nhau, tỏ vẻ quen biết khi Miyashita và Ando tiến đến hai ghế ở cuối quầy bar. Đó là chỗ ngồi yên tĩnh nhất trong quán.
Đầu tiên Miyashita hỏi Ando đã làm gì để tìm ra mật mã được chèn vào trong virus của Ryuji. Ando lấy bản in trong cặp ra và bắt đầu giải thích những bước mình đã thực hiện. Miyashita gật đầu lia lịa. Trước khi Ando nói hết một nửa, Miyashita dường như đã bị thuyết phục bởi sự hợp lý trong phương pháp của anh.
“Có vẻ như ‘mutation’ chính là câu trả lời. Bằng chứng về sự đúng đắn trong cách tiếp cận của cậu là nó chỉ cho một đáp án duy nhất.” Miyashita vỗ vai Ando. “Nhân thể tôi chắc là cậu đã nhận ra tất cả điều này tương đồng với cái gì?”
“Ý cậu là sao?”
Miyashita lấy trong túi áo một tờ giấy bị vò nhàu và giở ra. Trên giấy có vẽ cái gì đó. Cho dù là gì, thì nó cũng được vẽ rất thô sơ, chỉ để minh họa cho một ý tưởng chợt nảy ra.
“Cậu thử nhìn xem” Miyashita nói, đưa tờ giấy cho Ando. Ando cầm lấy và trải ra trên quầy bar trước mặt.
Anh hiểu ngay lập tức. Đó là hình minh họa chuỗi xoắn kép ADN trong một tế bào tự nhân đôi. Các chuỗi của chuỗi xoắn kép có tính bổ sung lẫn nhau: khi cấu trúc của một chuỗi được xác định, cấu trúc của chuỗi còn lại cũng được xác định một cách tự động. Khi một tế bào phân đôi, hai chuỗi tách ra, mỗi chuỗi sẽ tạo ra bản sao của thế hện sau đúng y như ban đầu. Quá trình sao chép một gen và truyền nó từ đời mẹ sang đời con có thể xem là cơ sở của ngành di truyền học.
Tất nhiên điều này không có gì khó hiểu đối với Ando. “Thế thì sao?” anh hỏi.
“Hãy nghĩ một chút về cơ chế đằng sau quá trình tiến hóa của các loài.”
Sự tiến hóa còn rất nhiều điều mà người ta chưa biết. Ví dụ, quan điểm cơ bản trong học thuyết của Kinji Imanishi khác với các quan điểm trong học thuyết Darwin Mới, nhưng không thể xác định được một cách chắn chắn quan điểm của ai là đúng. Nói chung, học thuyết tiến hóa giống như phong trào “trăm hoa đua nở”; mọi người, dù có đủ tư cách hay không, đều tham gia tranh luận bằng những quan điểm rất kiên định. Nhưng cho dù không có bằng chứng thuyết phục để giải quyết vấn đề, Ando biết rằng những tiến bộ gần đây trong ngành sinh học phân tử đã tiến gần đến chứng minh được những sự đột biến bất thường về gen là động lực của sự tiến hóa.
Do đó anh trả lời bằng cách nói với một chút tự tin, “Có lẽ nó bắt đầu từ đột biến gen.” Anh thấy có thể đoán được cuộc nói chuyện đang đi theo hướng nào.
“Đúng thế. Đột biến là một phát súng thúc đẩy sự tiến hóa đi lên. Vậy, đột biến diễn ra như thế nào?” Miyashita làm một hớp bia thật dài, rồi lấy từ túi áo ngực ra chiếc bút bi. Trước khi Ando kịp trả lời câu hỏi, Miyashita lại viết lên trên hình minh họa. Lý do xảy ra sự đột biến. Ando cố nhìn vào hình phác họa bên dưới tay anh ta.
“Có lỗi phát sinh trong mã gen – một tổn thương bất thường nào đó – và lỗi này được sao chép lại rồi truyền cho đời sau. Đấy gọi là đột biến. Cậu đồng ý không? Đây là quan điểm hiện hành về cơ chế đột biến.”
Miyashita lấy bút chỉ vào hình vẽ để nhấn mạnh lập luận, nhưng chẳng cần giải thích điều này cho Ando. Có thể gây ra sự tổn thương gen một cách có chủ ý trong phòng xét nghiệm bằng cách dùng tia X hoặc phóng xạ cực tím. Nhưng thông thường, đột biến xảy ra ngẫu nhiên. Chuỗi ADN về lý thuyết sẽ được sao chép chính xác và truyền cho thế hệ tương lai, nhưng đôi khi bị đột biến do xảy ra lỗi trong quá trình sao chép, đại khái thế, và khi những đột biến này tích tụ đủ thông qua sự tái tạo, dần dần loài mới xuất hiện. Một đột biến có thể xem là một bước nhỏ trong quá trình tiến hóa.
Cậu còn nhớ sự tương đồng tôi đã nói không?” Miyashita thì thầm. Cuối cùng Ando cũng hiểu ra Miyashita đang nói điều gì. X giống Y. Giờ khi xem xét điều đó, quả là có sự giống nhau.
“Cậu đang nói về chuyện sao chép những cuốn băng đúng không?” Cuối cùng Ando hỏi.
“Cậu có nghĩ về cơ bản chúng giống nhau không?” Miyashita cho hai lát lưỡi bò vào miệng và nuốt ực bằng một ngụm bia.
Ando lật tờ giấy lại, trải ra trên quầy, mượn chiếc bút của Miyashita và bắt đầu vẽ một sơ đồ. Anh cần xem xét lại các điểm tương đồng. Thậm chí đối với những điều mà anh nghĩ mình đã hiểu rất rõ, anh vẫn biết rằng vẽ mọi thứ lên giấy theo một sơ đồ thường sẽ hữu ích.
Vào ngày 26 tháng Tám, một cuốn băng được tạo ra tại Villa Log Cabin. Vào ngày 29, bốn thanh niên đến thuê căn nhà gỗ đó đã xóa đi phần cuối cuốn băng – phần có nội dung, Bất cứ ai xem cuốn băng này, trong một tuần, phải sao cuốn băng ra một bản và đưa cho người khác xem. Những thanh niên kia đã ghi đè một đoạn quảng cáo lên phần cuối ấy. Đối với cuốn băng, điều này giống như một sự kiện ngẫu nhiên không biết trước được, đã phá vỡ chuỗi sắp xếp gen của nó, chuỗi các hình ảnh. Đã xảy ra một lỗi. Cuốn băng giờ có một lỗi, sau đó được Asakawa sao chép lại. Dĩ nhiên lỗi đó cũng được sao chép. Cho đến lúc ấy, quá trình này giống hệt như quá trình mà ADN sử dụng để tự sao chép. Không những thế, phần bị xóa của cuốn băng, phần thông điệp, đóng một vai trò thiết yếu đối với khả năng sinh sôi của cuốn băng. Nói về mặt di truyền, nó là gen điều hòa. Một cú sốc xảy ra với gen điều hòa có thể khiến sự đột biến xảy ra dễ dàng hơn. Liệu sự hư hại ở cuối đoạn băng có khiến cho cuốn băng bị đột biến?
Ando dừng bút. “Khoan đã. Ở đây chúng ta không nói đến một sinh vật.”
Miyashita không một chút bối rối. Như thể anh ta đã chuẩn bị câu trả lời từ trước.
“Nếu có người bảo cậu định nghĩa sự sống, cậu trả lời thế nào?”
Sự sống, theo quan niệm của Ando, về cơ bản được tóm lược thành hai điểm: khả năng một thực thể tự sinh sản. và nó có hình thể. Lấy ví dụ một tế bào, nó có ADN để giám sát quá trình tự sinh sản, có protein để tạo nên hình dáng bên ngoài. Nhưng một cuốn băng video? Chắc chắn nó có hình thể – là vỏ nhựa của nó, thường có màu đen và hình chữ nhật. Nhưng không thể nói rằng nó có khả năng tự sinh sản.
“Một cuốn băng không có khả năng tự sinh sản.”
“Thì sao?” Miyashita nghe như đã hết kiên nhẫn.
“Thì cậu đang nói nó giống như một loại virus…”
Ando muốn rên lên. Virus là một dạng sống kỳ lạ: chúng thiếu khả năng tự sinh sản. Cho nên chúng nằm đâu đó giữa vô sinh và hữu sinh. Điều mà virus có thể làm là chui vào trong tế bào của sinh vật khác và sử dụng chúng để giúp nó sinh sản. Giống như cuốn băng đang nói đến, nó bắt người xem phải trở thành nô lệ bằng cách đe dọa giết họ trừ phi họ sao chép nó. Cuốn băng sử dụng con người trong quá trình sao chép của nó.
“Nhưng…” Ando cảm thấy buộc phải phản đối luận điểm này. Anh thậm chí còn không chắc mình muốn phản bác điều gì. Anh chỉ cảm thấy nếu không làm vậy, sẽ có thảm họa xảy ra.
“Nhưng tất cả các bản sao của cuốn băng đã bị vô hiệu hóa.”
Nói cách khác, sẽ không còn nguy hiểm nào nữa. Thậm chí nếu cuốn băng có sống được theo cách hạn chế như đời sống của một virus, thì giờ nó đã tuyệt chủng. Bốn cuốn băng đã được vào thế giới, giờ đã bị loại bỏ khỏi thế giới.
“Cậu nói đúng. Cuốn băng bị tuyệt diệt. Nhưng đó là chủng cũ rồi.” Những giọt mồ hôi trên mặt Miyashita ngày càng lớn hơn theo những ngụm bia anh ta uống vào.
“Ý cậu cũ là sao?” Ando hỏi.
“Cuốn băng bị đột biến. Thông qua sự sao chép, nó tiến hóa cho đến khi một chủng mới xuất hiện. Nó vẫn còn ẩn náu ở đâu đó ngoài kia. Và nó mang một hình dạng mới. Dù gì thì đó là điều tôi nghĩ.”
Ando chỉ có thể há hốc miệng nhìn. Cốc bia của anh đã cạn, nhưng giờ anh muốn một thứ gì mạnh hơn cả bia. Anh cố gọi rượu shochu pha đá, nhưng giọng anh ấp úng và anh không thể khiến cho người phục vụ nghe thấy. Miyashita gọi thay, anh ta giơ hai ngón tay và gọi lớn, “Shochu!” Hai cốc rượu được đặt trên quầy bar trước mặt họ, Ando ngay lập tức nâng lên và uống một ngụm hết một phần ba. Miyashita nhìn anh qua khóe mắt, rồi nói:
“Nếu cuốn băng bị đột biến và tiến hóa thành một chủng mới trong quá trình sao chép, thì chủng cũ bị chết đi cũng chẳng ảnh hưởng gì đến chủng mới cả. Cứ nghĩ đi. Ryuji đã phải mất công can thiệp vào một chuỗi ADN để có thể giao tiếp với chúng ta từ bên kia thế giới. Tôi không thể nghĩ ra lời giải thích nào khác về việc tại sao anh ta lại gửi cho chúng ta từ ‘mutation’. Cậu có nghĩ ra không?”
Tất nhiên là Ando không thể. Làm sao anh lại có thể chứ? Anh đưa ly rượu lên môi uống và uống, nhưng dường như mãi không say. Đầu óc anh minh mẫn một cách khó chịu.
Có lẽ là đúng . Ando thấy mình đang dần ngả về quan điểm của Miyashita. Có lẽ Ryuji dùng từ “mutation” với ý cảnh báo. Ando có thể nhìn thấy khuôn mặt của Ryuji khi anh ta cười nhạo, Cậu nghĩ mình đã an toàn. Cậu cho là virus đã tuyệt chủng. Nhưng cậu không thoát khỏi chuyện này dễ dàng thế đâu. Nó đã đột biến, và một phiên bản mới đang xuất hiện.
Ando nhớ đến virus bệnh AIDS. Người ta cho rằng cách đây vài trăm năm, một loại virus thời tiền sử đã đột biến và trở thành virus bệnh AIDS như ta biết đến ngày nay. Loại virus trước đó không lây nhiễm sang người và có lẽ hoàn toàn vô hại. Nhưng thông qua đột biến, nó có sức mạnh tàn phá hệ miễn dịch của con người. Nếu điều đó cũng xảy ra với cuốn băng? Ando chỉ có thể cầu nguyện cho điều ngược lại xảy ra, rằng cái thứ tai hại kia đã trở nên vô hại. Nhưng thực tế lại gợi ý điều trái ngược khác. Trái ngược với vô hại, cuốn băng bị đột biến đã chuyển thành một thứ giết chết bất kỳ ai xem nó, cho dù họ có sao chép nó hay không. Nếu đó là dấu hiệu, sự việc đang trở nên ghê gớm hơn. Và vì Ando không thể đưa ra kết luận gì về sự biến mất của Mai, chỉ còn Asakawa là người duy nhất còn sống.
“Tại sao Asakawa còn sống?” Ando hỏi Miyashita đúng câu hỏi mà anh đã hỏi anh ta ngày hôm trước.
“Đó chính là vấn đề, đúng không? Anh ta là đầu mối duy nhất để biết cuốn băng biến đổi thành cái gì.”
“À, thực ra là… còn một người khác nữa.”
Ando kể vắn tắt cho Miyashita về Mai: vì sao cuốn băng đến được với cô qua Ryuji, rằng có bằng chứng cô đã xem nó, và cô đã mất tích gần ba tuần như thế nào.
“Nghĩa là có hai người đã xem cuốn băng và vẫn còn sống.”
“Asakawa vẫn còn sống, dù chỉ là hình thức. Tôi không chắc về Mai.”
“Tôi hy vọng cô ấy còn sống.”
“Tại sao?”
“À, tại sao không. Có hai đầu mối thì tốt hơn là có một.”
Anh ta có lý. Nếu Mai còn sống, họ có thể tìm ra được điểm chung giữa cô và Asakawa. Điều đó có lẽ sẽ cho họ câu trả lời. Nhưng về phần mình, Ando chỉ hy vọng cô vẫn an toàn.