Tặc Miêu - Quyển 2 - Chương 3: Dật sự đền tiên
Trương Tiểu Biện rốt lại thì kiến thức kém cỏi, chỉ thích làm những việc dễ dàng. Hắn nóng lòng phát tài, thấy đổi được con mèo đen của hiệu thuốc tự cho là đắc thể, nghĩ là sắp đạt được tới đích, chỉ mong mau chóng đến Hòe viên tìm của, chẳng thèm quan tâm đó là nhà ma nhà quỷ gì. Hắn cầm chìa khóa trong tay, cảm tạ Thiết Công Kê đã cho tá túc, lại lấy cớ không còn sớm sủa nữa, cùng Tôn Đại Ma Tử vội vã cáo từ ra về.
Thành Linh Châu về đêm nghiêm cấm người dân ra ngoài. Phố lớn ngõ nhỏ đều có từng tốp quan binh lính dõng rầm rập tuần tra. Lúc bấy giờ quân thủ thành đang thiếu, các nhà, các hộ đều phải cắt cử trai tráng ra giúp. Thiết gia có một người lão bộc bị điều động làm lính già chuyên cầm canh gõ mõ báo giờ. Người này hiểu rõ đường lối trong thành, có thể giúp tránh khỏi lính tuần sát. Sau khi được Thiết chưởng quầy dặn dò, lão dẫn bọn Trương Tiểu Biện đi đến Hòe viên.
Tạm thời không nói Thiết Công Kê sẽ xử lý cái cương thi đó như thế nào, riêng bọn Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử sau khi ôm con mèo đen ra ngoài tìm Tiểu Phượng rồi cả ba vội vàng theo người lính già , luồn qua ngõ phố trong bóng đêm. Trương Tiểu Biện mồm mép trơn như mỡ, tán phét vài câu, bắt thân với người lính già nọ, thăm dò và biết được, người lính già lấy họ Thiết của chủ nhân, tên là Trung, từ ông tổ tám đời đã là người bản địa LInh Châu.
Lão hán Thiết Trung chừng năm mươi tuổi, lời nói và tướng mạo đều không có gì xuất chúng, xem ra chỉ là một lão bộc già trung hậu mà thôi. Lão mặc một cái áo cộc cũ nát có đánh số, tay xách ngọn đèn lồng, đeo thanh la và mõ phèng, vừa đi vừa hô: “Bình an vô sự đơi… ơi… Cẩn thận củi lửa đơi… ơi… “
Mấy người đi vào một ngõ nhỏ tối om om, thấy đã gần đến nơi, Thiết Trung đột nhiên ngừng lại, nói với bọn ba người Trương Tiểu Biện: “Không phải ta dọa các người đâu, nhưng trong thành Linh Châu này chẳng ai không rõ, trong Hòe viên đúng là có ma quỷ ẩn hiện, hại chết không biết bao nhiêu mạng người rồi. Hàng phố bốn bên đều sợ tòa nhà ma này nên đã chuyển đi hết. Cả dãy phố này, ngoài chuột và mèo hoang thì chẳng còn sinh vật nào nữa đâu. Đến lúc tối đêm, ngay cả đám lính dõng tuần tra cũng không dám đi ngang qua đây. Lão hán ta nói một câu khó nghe thế này, bọn hậu sinh các ngươi đêm nay nhỡ ra gặp ma, chết trong Hòe viên, chắc còn khó tìm được người đi nhặt xác. Nếu nghe lời khuyên thật lòng của ta thì nhân lúc này hãy còn sớm, mau tìm chỗ khác mà tạm trú qua đêm đi.”
Trương Tiểu Biện chẳng hề để tâm, vốn không để lời của lão hán lọt vào tai, nghĩ thầm, Tam gia ta có biệt hiệu “Trương to gan”, chẳng phải chỉ là hư danh tự dưng mà có được đâu. Mấy năm ở miếu hoang đền nát, chẳng lẽ sợ một chỗ nhà vườn trong thành ư? Nghĩ đoạn, hắn liền nói với lão Thiết Trung rằng: “Cảm tạ lão nhân gia có lòng chỉ bảo, nhưng trong lúc nửa đêm canh khuya này, trong thành còn có chỗ nào chứa chấp được bọn tiểu nhân nữa? Tiểu nhân Trương Tam cũng chỉ là một kẻ cùng đinh, quỷ thần còn chẳng thèm lấy mạng, vì vậy gan to mật lớn, mấy cái bọn yêu ma tép riu, tiểu nhân không hề sợ sệt gì đâu.”
Tôn Đai Ma Tử rất khoái nghe những câu khoác lác kiểu anh hùng hào kiệt, liền tiếp lời luôn: “Người sợ ma ba phần, ma sợ người bảy phần, chúng tôi đều là đại trượng phu, khí nuốt bốn bề, xưa nay đi thì ngay, ngồi thì thẳng, trong lòng sẵn có đám lược. nếu trên đời này thực sự có loài yêu quỷ, theo lý chúng phải sợ chúng tôi mới phải.”
Từ lúc vào thành tới giờ, Tiểu Phượng luôn run rẩy sợ hãi, nhưng cô ả nhà quê cũng không hiểu biết gì, đến gặp người lạ cũng khó mở miệng nói chuyện. Cô ả thấy một dãy phố, nhà cửa chẳng có chút tăm hơi tiếng người, hơn nữa lại còn tối đen kìn kịt không có lấy một đốm lửa, càng thêm khiếp sợ, đang định khuyên mọi người đừng vào trong căn nhà ma, bỗng nghe trên mái nhà phía sau cất lên tiếng mèo kêu: “Meooo”, nghe sởn cả da gà, kinh hãi suýt ngã bệt xuống đất, may mà lão hán Thiết Trung đỡ được.
Trương Tiểu Biện nghiêng ngó thăm dò, trong đêm đen khó biết được tung tích con mèo hoang, chỉ thấy đường lối, nhà cửa xung quanh có chút quen thuộc, chợt nhớ ra nơi đây rất gần ngõ Miêu Nhi đã đi qua hồi sáng.
Lão Thiết Trung bảo Tiểu Phương: “Chớ có sợ, mèo hoang trong thành rất đông, đặc biệt là khu xung quanh Miêu Tiên từ này. Các ngươi gan lớn tày trời dám qua đêm trong nhà ma, tuyệt đối không phải chuyện giỡn chơi đâu. Ta chỉ là một gã gõ mõ cầm canh, chẳng nói được đạo lý gì ra hồn, chắc không khuyên bảo được các ngươi, nhưng đúng lúc đi qua chỗ này, thì cũng nên vào đền rập đầu trước Miêu Tiên gia vài cái, may ra lão nhân gia phù hộ cho các ngươi được một đêm bình an.”
Đất Linh Châu có tục thờ Miêu Tiên gia, bọn Trương Tiểu Biện ba người hết sức tin theo, đồng thời, cũng là lấy thêm chút can đảm nên đồng thanh khen hay, thuận lối đi vào ngôi đền cổ. bệ thờ trong sảnh có môt pho tương thần bằng đất, áo xanh, râu dài, ánh mắt từ bi, giống như một nhà Nho bụng đầy chữ nghĩa. Nhìn thần vị thì chẳng phải ai khác, chính thị là Miêu Tiên gia đã nhiều lần hiển linh ở đất này.
Bọn Trương Tiểu Biện tuy nghe danh Miêu Tiên gia đã lâu nhưng không biết xuất xứ lai lịch của di tích cổ này, cũng chưa lần nào vào miếu thắp hương, xưa nay vẫn tưởng vị đại tiên nọ là con mèo già đắc đạo. Lúc này nhìn rõ, không khỏi lấy làm ngạc nhiên, nhưng không dám báng bổ, vội cung kính quỳ xuống rập đầu, khấn khứa trước thần vị rằng: “Bọn tiểu nhân là các thiện nam tín nữ, xin đại tiên gia nhất thiết phải phù hộ cho chúng đệ tử gặp hung hóa cát, gặp hiểm hóa lành. Từ nay về sau nếu được mở mặt, có thể có được một chút phú quý nhất định sẽ không quên mua một ít cá muối, bánh bao để bố thí cho mèo hoang trong miếu. Nhược bằng Miêu Tiên gia khai ân, phù hộ cho chúng đệ tử được đại phú đại quý thì nguyện tô tượng kim thân, xây chùa, dựng tháp cho lão nhân gia. Chúng con lòng thành, mong tiên gia hiển linh chứng cho.”
Lễ bái Miêu Tiên gia đâu đấy, Trương Tiểu Biện thấy hơi lạ, định hỏi cho rõ ngọn nguồn, liền thăm dò lão hán Thiết Trung: “Bọn tiểu nhân mới nghe nói Miêu Tiên là thần trong thành Linh Châu, chứ không rõ sự tích đắc đạo của đại tiên gia, rốt cuộc không biết ngài vốn xuất thân từ đâu? Chuyện bắt đầu và kết thúc thế nào?”.
Lão Thiết Trung từ nhỏ đã tin Miêu Tiên như tin Phật Tổ, Bồ Tát, thấy bọn Trương Tiểu Biện không biết lai lịch của đại tiên, liền trách móc: “Các ngươi là đồ ngu muội lưu manh chỉ giỏi những chuyện đâu đâu, van vái trong đền một hồi mà ngay cả chuyện về Miêu Tiên lão nhân gia cũng không biết rõ?”
Mắng rồi, lão kể: Tương truyền chuyện xảy ra cách đây đã mấy trăm năm, hồi đó Linh Châu đã nổi tiếng nhiều mèo rồi. ngoài thành có một ngôi chùa cổ tên là Bỉ Lôi tự, xây dựng từ thời Nam Bắc triều, nhiều lần bị binh lửa phá hủy, nhưng rồi lại được trùng tu, quy mô ngôi chùa càng về sau càng lớn. Trong chùa đời nào cũng có cao tăng trụ trì, hương lửa rất thịnh vượng.
Từng có một vị cao tăng pháp hiệu là Đàm Chân. Lão hòa thượng này sống hơn trăm tuổi, tuy tuổi tác cao nhưng thông hiểu Phật lý thiền cơ, biết được việc quá khứ, vị lai, khi giảng kinh thuyết pháp thì lời lẽ ảo diệu vô biên, từng câu từng chữ như nảy hoa sen. Trên có quan lại phú hào, dưới có nông dân bách tính đều coi ngài là Phật sống trong Bỉ Lôi tự. Đàm Chân lão hòa thượng không màng việc tụng, hàng ngày ở trong chùa thắp hương, tụng kinh.
Trước cửa Bỉ Lôi tự có một cái ao phóng sinh, trăm họ trong vùng gọi là Bỉ Lôi đường. Đó là một cái đầm cổ nghìn năm nay chưa từng cạn nước. Nước xanh tĩnh lặng, dù tiết trời có nắng nóng thế nào, xung quanh Bỉ Lôi đường vẫn luôn mát rượi. Phàm những ngôi chùa lớn một chúa đều có ao phóng sinh, trong ao nuôi thả các loại cá, rùa. Ao phóng sinh, một là thể hiện đức hiếu sinh của nhà Phật, hai là trữ nước để phòng cháy, ao to hay nhỏ phụ thuộc vào quy mô của chùa. Bọn mèo lớn mèo nhỏ trong thành Linh Châu thường tới bờ ao xem cá. Mèo không biết bơi, nhìn lũ cá bơi trong ao, chúng cũng chỉ biết đứng hóng cho mát và rõ dãi thèm suông, vì vậy trước chùa Bỉ Lôi thường có nhiều mèo hoang qua lại, từ lâu sư sãi trong chùa đã coi đ1o là chuyện thường tình rồi.
Cũng bởi các vị hòa thượng trong chùa đều ăn chay nên mèo hoang chỉ lượn lờ ngoài Bỉ Lôi đường chứ rất ít khi vào chùa, chỉ riêng có một con mèo già toàn thân lở loét, mấy năm trời, đêm ngày quanh quẩn trong chùa.
Chú tiểu quét chùa sẵn lòng từ bi, thấy con mèo già ấy, liền tìm ít thảo dược chữa bệnh lở loét cho nó. Nào ngờ, thuốc không đúng bệnh, con mèo càng thêm lở loét, toát ra mùi hôi khó tả, thà không dùng thuốc còn hơn. Chú tiểu nọ từ đấy không dám chăm sóc nó nữa. Truyện “Tặc Miêu ”
Sáng hôm đó, tại Phật đường, hòa thượng Đàm Chân giảng xong Nam Mô Diệu Pháp, gọi chú tiểu quét chùa vào, chỉ con mèo già lở loét đang nằm bẹp trên xà nhà đối diện, bảo: “Con vật này không thể để lại nữa, con hãy mở lòng lành, tìm cách giải thoát cho nó đi.” Ý tứ bảo chú tiểu tìm nơi giết con mèo già, hơn nữa còn dặn dò làm cho gọn gàng trước rạng sáng ngày hôm sau, xác mèo có thể côn trong khu rừng rậm sau núi.
Chú tiểu quét chùa giật nảy mình, nghĩ bụng, sư phụ xưa nay bản tính từ bi, tâm luôn hướng thiện, mà sao hôm nay lại như thế? Con mèo già đó tuy dơ dáy nhưng chưa từng gây ra tai họa gì, người xuất gia kỵ nhất là sát sinh, ta làm sao xuống tay được đây? Chú tiểu định hỏi cho rõ thì hòa thượng Đàm Chân đã nhắm mắt nhập định.
Lệnh thầy khó cãi, chú tiểu không dám nhiều lời trèo lên tường bắt con mèo già xuống, định bóp chết hoặc lấy gậy đánh chết nó nhưng không thể xuống tay được. Cuối cùng, nghĩ đi nghĩ lại, chú tiểu đem con mèo đến bên ao phóng sinh, định ném nó xuống nước cho chết đuối, ngần ngừ một lúc lâu cũng không dám xuống tay. Chú tiểu là người trong sáng, đến con kiến cũng không nỡ giẫm, liền nghĩ ra một cách: “Nơi cửa Phật thanh tịnh, làm sao dung việc sát sinh?”, liền ngầm đem con mèo ra ngoài chùa thả. Thấy nó đi xa, chú tiểu mới quay về phục mệnh. Truyện “Tặc Miêu ”
Nhập định xong, hòa thượng Đàm Chân gọi chú tiểu lại Phật đường, hỏi chuyện con mèo già. Chú tiểu nói dối là đã dìm chết con mèo ở Bỉ Lôi đường. Hòa thượng Đàm Chân mắng: “Kẻ xuất gia không được nói dối, trước mặt Phật tổ mà ngươi dám mở miệng nói xằng thế ư?”
Chú tiểu sợ quá, vội khấu đầu trước tượng Phật xưng tội. Đàm Chân pháp sư nói: “Ngươi mau bắt con mèo đó về đây, trước khi trời sáng nếu không xử lý được nó, sư đồ chúng ta đều sẽ phải gánh thêm nghiệp chướng… “
Nói rồi, đại sư liền niệm bốn câu kệ rằng: “Thế gian vạn vật tàng nhân quả; Biển lớn bèo trôi cũng ngẫu nhiên; Sống chết đi về người chớ oán; Thân này khoảnh khắc sẽ tan liền.”
Muốn biết chuyện sau ra sao, đợi hạ hồi phân giải