Lữ Quán Giết Người - Chương 1
Mặc dù các cửa kính đều đóng kín, khí lạnh và hơi ẩm vẫn lenvào xe. Nệm ghế bằng da nhờn dính tay. Trên mui xe, những giọt nước mưa theo mộtkẽ rạn nào đó làm ướt da bọc ghế và để lại những vết xanh như mực. Gió xoáycàng lúc càng tăng, có lúc gió như muốn lật nghiêng chiếc xe cũ kỹ khi qua mộtkhúc quanh. Khi lên chỗ cao, trống, gió càng có dịp làm cho cả thùng xe runglên, đong đưa giữa bốn cái bánh gỗ cao nghều nghệu… như một tên say rượu.
Trùm kín tai, ngồi khum lưng như muốn gập đôi người lại, bácđánh xe cố sức dùng đôi vai che chở cả thân hình trong mưa gió.
Trong khi ấy, bốn con ngựa chừng như kiệt sức tiến tới mộtcách chậm chạp, miễn cưỡng. Chốc chốc, đôi tay lạnh cóng của bác phu xe lại nhịproi vun vút lên đầu chúng, song những ngọn roi của bác thật chả thấm thía chiso với gió mưa. Bánh xe rít lên ken két mỗi khi sụp nhằm một ổ gà, rồi bùn lẫnvới nước mưa bắn lên cửa kính tung tóe. Mưa vẫn ri rỉ, lai rai, trời tối mịt.
Trên xe, lơ thơ vài hành khách, họ ngồi sát lại nhau như đểsưởi nhờ hơi ấm của nhau. Mỗi bận xe sụp nhằm ổ gà, họ lại nhất loạt kêu lên ơiới.
Một ông lão, từ khi lên xe ở Truno vẫn không ngớt phàn nàn,bỗng không giận dữ đứng lên; ông mạnh tay quay kính xe xuống khiến mưa bay vàoướt cả ông lẫn bạn đồng hành. Nghiêng mình ra ngoài cửa, ông mắng bác phu xe làquân ăn cướp, sát nhân; ông bảo rằng nếu bác ta cứ cho xe chạy kiểu này mọi ngườisẽ chết trước khi đến Bodmin, rằng mọi người đều sắp ngất đến nơi, rằng ông thềsẽ không bao giờ đặt chân lên một cái xe ngựa nào nữa, từ nay.
Những lời nhiếc móc tàn tệ kia được gió mang đi. Vì chờ mãivẫn không thấy bác phu xe phản ứng, ông ta đành tặc lưỡi, quay kính xe lên lại.Mọi người tê cóng vì gió luồn vào. Ông khách khó tính trở lại chỗ ngồi, đắp haichân và tiếp tục càu nhàu.
Bên cạnh ông ta là một bà vui tính, người beo béo, mặc mộtcái áo khoác xanh dương. Thở dài đánh sượt một cái, bà ta ra vẻ cảm thông với bạnđồng hành về nỗi bực tức, nháy mắt với các người khác, và sau cùng cất tiếngnói rằng đêm nay là đêm kinh khủng khó quên nhất đời mình. Ðoạn bà lục trongcái giỏ to kềnh lấy ra một cái bánh ngọt khá lớn, cắn ăn ngon lành.
Mary Yellan ngồi đối diện bà ta. Kẽ nứt trên mui xe thỉnhthoảng lại giọt tành tạch vài giọt nước lạnh buốt lên vai nàng, và cô gái lặnglẽ lấy tay chùi vội. Hai tay đỡ lấy cằm, Mary dán mắt ra khung cửa xe đầy bùnvà nước mưa. Cô ao ước một cách vô vọng: một tia nắng xuyên qua bầu trời nặng nềdù chỉ trong khoảnh khắc, để cô được thấy lại khung trời xanh của Helford, nơicô vừa từ giã hôm qua.
Helford cách đây 40 dặm. Nơi đó đã là tổ ấm của nàng suốt 20năm qua. Nhưng hy vọng của nàng tàn ngay sau đó và lòng can đảm – trước nay vẫnlà đức tính của nàng – đã giúp nàng vượt mọi trở ngại trong cơn bệnh kéo dài củamẹ, giờ bỗng tiêu tán bởi trận mưa dai dẳng và cơn lốc dữ dội này.
Vùng đất xa lạ làm Mary lạc hướng, Mary thấy một thế giớikhác xa với thế giới nàng đã sống lâu nay, dù chỉ cách có một ngày đường. Chao!Biết bao giờ cô gái được thấy lại những đồng cỏ xanh rì ở Helford, những dòngnước trong vắt lấp lánh dưới nắng sớm, những mái nhà tranh thơ mộng bên dòng suối?Mưa ở Helford thật khác xa đây: mưa rơi tí tách tưới mát cỏ cây rồi trở thànhnhững dòng nước chảy ra sông.
Mưa làm mát đất và đất biết ơn trổ hoa mầu đền bù…
Ðây mưa tạt vùn vụt vào khung kính và như không thể thấm vàođất cằn cỗi. Chả thấy cây cối gì trừ vài cây khô, giang cành khẳng khiu ra chốngđỡ gió mưa một cách tuyệt vọng; chúng đã trải qua nhiều năm tháng chịu đựng thờitiết quái ác ở đây và kiệt sức rồi. Bão tố và thời gian làm chúng khô khan. Dùcho mùa xuân có đến, các nụ trên thân cây cũng không đâm lá vì sợ chết rét. Ðấtnghèo nàn, không một cánh đồng, không một rào dậu. Ðó đây toàn đá sỏi, vài bụigai đen và những cành hoa dại xác xơ.
Mary nghĩ chắc trong vùng này chỉ có mùa đông đen tối, nhưhôm nay và mùa hè khô bốc lửa: không tìm thấy một bóng mát khắp thung lũng. Cỏvừa lên khỏi mặt đất cằn đã phải ngả mầu vàng úa. Khắp vùng đều u ám như thờitiết. Ngay trên đường đi và trong làng mạc, những kẻ Mary gặp như cũng hợp vớikhung cảnh: buồn bã, khô khan…
Rời Helston, Mary vẫn như còn ở trên miền đất thân yêu, quenthuộc: bao nhiêu kỷ niệm buộc chặt nàng với Helston!
Mỗi tuần, cha nàng đánh xe chở nàng ra chợ và đến khi cha mất,mẹ nàng đã can đảm thay cha nàng chở nàng suốt hạ qua đông; gà vịt, trứng, bơđược chất trong thùng xe trong khi Mary ngồi cạnh mẹ nàng ở băng trước, ôm khưkhư một cái giỏ to gần bằng cả người nàng, cằm đặt trên quai giỏ.
Dân làng rất tốt bụng. Gia đình Mary được mọi người quen biếtvà kính mến. Sau khi chồng chết, mẹ nàng đã gặp nhiều khó khăn, và ít người cóthể sống như mẹ nàng: một mình với con thơ và một trang trại phải chăm sóc, màkhông hề nghĩ đến chuyện tìm một bạn đường khác để nương tựa.
Một ông chủ trại ở Manaccan, và một ông khác ở Gweek, miềnthượng lưu dòng sông đều muốn cưới bà nhưng họ không dám ngỏ ý. Cả hai người đềuđọc trong mắt bà cái ý chí cương quyết cùng như lòng kiên trung, họ biết rằngbà luôn luôn thuộc vào một người đã khuất và họ biết rút lui trước khi ngỏ ý đểkhỏi bị bẽ bàng.
Công việc đồng áng khó nhọc vượt quá sức bà. Bà vẫn cố gắngvượt mọi trở ngại, chứng tỏ can đảm có thừa, trong suốt 17 năm ròng góa bụa. Nhưngsức người có hạn: bà không vượt nổi thử thách sau cùng nên đã ngã quị xuốngluôn.
Mẹ Mary đau liệt giường. Gia súc giảm trong trại, lại gặplúc thời tiết xấu, giá gà, trứng thì rẻ mạt, tiền kiếm khó khăn hơn. Trong vùngvà miền lân cận tình trạng cũng tương tự. Trong các nông trại nhiều người gầnchết đói. Bệnh dịch súc vật nổi lên hoành hành các vùng quanh đó. Người takhông biết đó là thứ dịch gì và cung cách chạy chữa thế nào, vì thế dịch càng dữdội. Nó tàn phá tất cả những gì nó gặp như một cơn lạnh trễ tràng đến sát mùavà khi nó biến mất đã để lại sau lưng sự chết
chóc kinh hồn.
Ðó là một thời gian đầy lo lắng cho mẹ con nàng. Họ buồn rầunhìn gà vịt mình gia công chăm nuôi nhuốm bệnh và lần lượt chết. Ðến con bò concũng ngã xuống giữa đồng. Nhưng điều làm cho họ đau đớn nhất là cái chết củacon ngựa cái, nó đã làm lụng với họ suốt hai chục năm ròng. Chính trên lưng rộngvà rắn chắc đó, Mary đã tập cưỡi ngựa lần đầu…
Một buổi sáng, con ngựa nằm xuống vĩnh viễn, đầu vẫn còn gốilên chân cô chủ trẻ. Một nấm mộ được đào ngay dưới gốc cây táo. Sau khi chôncon vật trung thành, mẹ con nàng đau xót thấm thía: từ nay họ làm sao ra chợ mỗituần?
Mẹ nàng bảo con gái bằng giọng buồn rầu:
– Hình như có cái gì trong mẹ đã ra đi, đã bị chôn cùng conNell đáng thương rồi, Mary ạ! Mẹ chán nản, không thiết gì nữa cả, mẹ mỏi mệt vôcùng…
Mary nhìn kỹ mẹ: nàng hoảng hốt thấy mẹ như già thêm 10 tuổitrong khoảnh khắc, mặt tái xanh, quầng mắt thêm sâu, bà lảo đảo phải tựa vàocon cho khỏi ngã trong đoạn đường từ gốc táo vô nhà. Nghe con gái định mời bácsĩ, người mẹ tỉnh táo trả lời:
– Trễ lắm rồi, Mary ạ! Đã 17 năm rồi…
Lần thứ nhất bà khóc thổn thức. Lần thứ nhất bà khóc trước mặtcon gái. Mary chưa hề thấy mẹ khóc bao giờ.
Khi Mary ngồi cạnh viên bác sĩ – người đã đỡ nàng trong khimẹ nàng sinh – ông ta lắc đầu, cất giọng rầu rĩ bảo nàng:
– Ta cho con biết nguyên do: mẹ con đã phung phí sức khỏe từkhi cha con nhắm mắt. Giờ đây bà khó lòng mà gượng nổi. Ta lo quá, Mary ơi!
Chiếc xe chở cả hai người trở về trên con đường ngoằn ngoèo.Một bà láng giềng chờ tận cửa, vẻ nóng nảy của bà làm cho Mary và bác sĩ cảm thấyđiềm xấu đang chờ họ.
– Mẹ cháu yếu quá. Bà vừa ra khỏi cửa thì run lên, mắt lạcđi, ngã gục xuống. Chúng tôi đã vực bà lên giường, nhưng…
Bác sĩ xua những kẻ tò mò vây quanh cửa, bước vào nhà. Saukhi khám kỹ bệnh nhân, ông nói với Mary:
– Mẹ con bị sung huyết, nhưng bà còn thở đều. Ta rất sợ cơnsung huyết bất ngờ đáng sợ này.
Rồi ông thấp giọng xuống, như cốt nói với chính mình:
– Sao mãi đến bây giờ nó mới phát ra, sau bao nhiêu năm khónhọc? Chỉ có Trời và có lẽ – cả bà ấy, biết rõ mà thôi! (Ông cao giọng lên:)Mary! con phải tỏ ra xứng đáng với mẹ con. Chỉ có con có thể giúp mẹ con vượtqua cơn thử thách đáng lo này. Chỉ có con thôi!
Suốt sáu tháng liền, Mary tận lực săn sóc mẹ. Mẹ nàng trảiqua cơn bệnh đầu tiên – mà cũng là cuối cùng – của đời bà. Mặc dù được con gáivà bác sĩ tận tình chăm sóc, cơn bệnh không lui. Hình như bà không thiết sống nữa.Bà mong một sự giải thoát và mong nó đến mau hơn.
Bà bảo con, giọng âu yếm:
– Mẹ không muốn con sống khó khăn, cực nhọc như mẹ đã sống.Hại cả thể xác lẫn tinh thần. Khi mẹ chết rồi không còn gì giữ con lại Helford.Hãy đến sống với dì Patience ở Bodmin.
Mary quả quyết rằng mẹ nàng không thể chết được, rằng nàng cầncó mẹ cũng như mẹ cần nàng. Bà sẽ vượt qua… Nhưng vô ích. Bà đã nhất định nhưthế và không hề đổi ý. Mary nói với mẹ:
– Con không bao giờ rời nông trại. Con sinh tại đây cũng nhưcha con. Dòng họ Yellan của chúng ta phải ở đây! Sự nghèo khổ vất vả không làmcon sợ. Cũng như sự suy sụp của nông trại… mẹ đã ra công trong 17 năm trời, tạisao con lại bỏ nó khi mẹ không còn sống nữa? Con mạnh khỏe, con có thể làm việcnhư một người đàn ông, mẹ thấy mà!
– Ðời sống này không thích hợp với một thiếu nữ như con. Mẹnàng nói như một lệnh – Nếu mẹ đã chịu đựng lâu nay đó là vì hai người thân yêucủa mẹ: con và cha con. Khi một người đàn bà làm việc cho ai, họ thỏa mãn vàyên lòng, có can đảm. Nhưng nếu làm cho chính họ lại là một việc khác. Lòngmình khó thỏa mãn con nên nghe lời mẹ!
– Con làm gì ở thành phố? Con chỉ quen và chỉ ưa sống như thếnày, cạnh dòng sông, không ưa thay đổi. Con sẽ sung sướng ở đây với vài con gàcòn lại, với con ngựa già, với cỏ trong vườn và chiếc thuyền trên sông. ÐếnBodmin với dì con, con sẽ làm gì? sẽ ra sao?
– Một cô gái không thể sống đơn chiếc một mình. Con sẽ trởthành quái dị hay hư hỏng. Hãy nghe mẹ! Sự cô đơn là một cái gì đáng sợ nhất. Rồicon sẽ thấy. Dưới mồ mẹ không sao yên lòng Cũng như cha con, nếu không được biếtcon sống an toàn cạnh người thân. Dì Patience rất tốt, dì vui tính, hay cườiđùa và có tấm lòng vàng. Con quên dì rồi ư? Dì không sinh nở, dì sẽ thương connhư mẹ vậy. Con còn nhớ không: lúc dì đến đây, cách 12 năm trước…
Không, Mary không quên dì Patience, tuy lúc đó nàng còn bé.Dì mặc cái váy lụa, áo xanh và đội mũ kết nơ nhung. Mái tóc dì gợn sóng, mắtxanh biêng biếc. Phải, Mary còn nhớ kỹ: từ nụ cười, khóe mắt cho đến cái cáchdì nhón gót, tay xăn váy đi trong bùn ngoài sân. Nom dì xinh như một… cô tiên!Trong lúc Mary thả trí nhờ về dĩ vãng, mẹ nàng nói tiếp:
– Mẹ không rõ chú ấy thế nào, vì mẹ chưa gặp chú. Nhưng khidì thành hôn với chú cách nay 10 năm, dì viết cho mẹ một lá thư kể nhiều chuyệnngông cuồng, mẹ rất ngạc nhiên. Vì theo mẹ, chuyện này có thể hiểu được nếu dìcon là một cô gái còn trẻ dại cỡ 18, đôi mươi… nhưng dì con lúc đó đã ngoài 30tuổi…
– Dì và chú ấy sẽ thấy con quê mùa quá – Mary chậm rãi nói –con không thể có đôi bàn tay đẹp như các cô gái nhà giàu thành phố và… và rồicon cũng không biết nói chuyện gì với hai người…
– Dì chú sẽ thương con vì con là cháu họ, chứ không phải vìsự sang trọng hay dáng bộ bề ngoài. Mary con! hãy hứa với mẹ: sau khi mẹ nhắm mắtrồi con sẽ nghe lời mẹ biên thư ngay cho dì và nói rõ ước muốn cuối cùng duy nhấtcủa mẹ là thấy con sống cạnh dì.
– Con xin hứa. Con xin vâng lời mẹ! Xin mẹ yên lòng. Con sẽlàm tất cả những gì mẹ muốn…
Mary nói, lòng tràn thống khổ vì nghĩ đến tương lai mờ mịtkhác xa đời sống đơn giản, quen thuộc hiện nay bên mẹ thân yêu. Chao! rồi Marysẽ từ biệt miền đất quê hương quen thuộc? Nàng sẽ dựa vào đâu để vượt qua nhữngngày sắp đến, không hứa hẹn và chỉ thấy cô đơn?
Mẹ nàng mỗi ngày một suy yếu thêm. Sự sống chậm rãi nhưng chắcchắn rời khỏi bà. Mùa gặt đến rồi mùa hái quả đến… cho đến đầu thu. Khi sươngmù bao phủ bầu trời vào mỗi sáng, lúc cái rét bắt đầu làm đất khô cằn, dòngsông chảy mạnh cuồn cuộn ra bể cả; tiếng sóng bể vỗ mạnh trên bờ bể Helfordcũng là lúc bà kiệt quệ và tinh thần giao động. Bà nhắc đến tên người quá cố,nói đến chuyện quá khứ và những kẻ Mary chưa hề biết đến. Trong ba hôm liền, mẹnàng như sống trong một thế giới riêng tư, nhỏ bé và đến ngày thứ tư, bà ngừngthở.
Mary đau lòng nhìn những vật quen thuộc lần lượt qua tay kẻkhác. Ðàn gia súc đem bán ở chợ Helston. Các láng giềng mua bàn ghế, tủ giường.Một người ở Coverack mua ngôi nhà. Miệng ngậm ống điếu, ông ta nhanh nhẹn đilui, đi tới giữa sân, tay chỉ những nơi cần thay đổi, sửa chữa, những cây cốimà ông định chặt bỏ cho quang đãng. Mary tức tối nhìn ông ta qua khung cửa sổtrong khi tay nàng dồn một số đồ đạc cần dùng còn lại vào cái rương của chamình. Thật vậy, người này làm cho mình có cảm tưởng mình là một kẻ lạ xâm nhậpvào nhà này mặc dù nó vẫn còn là nhà nàng. Nàng đọc trong mắt ông ta sự hối hả,thúc giục nàng rời khỏi nhà càng sớm càng tốt. Vì thế, Mary chỉ nong nả mongcho sớm xong công việc để rời Helford mà không hẹn ngày trở lại.
Mary ngừng tay làm việc, giở thư dì đọc lại. Nét chữ nguệchngoạc, dì cho cháu biết là rất buồn về sự không may của nàng; dì không hay biếtgì về cơn bệnh của mẹ nàng vì lần cuối gặp nhau cách đây đã nhiều năm. “Hiệnnay dì chú có vài thay đổi, không còn ở Bodmin mà ở cách đấy 12 dặm, trên đườngđi Launceston. Vùng này hoang vu lắm. Nếu cháu muốn đến, dì rất vui có bạn trongmùa đông. Dì hỏi ý kiến chú rồi: không có gì cản trở, nếu cháu đừng ồn ào, bépxép. Chú sẵn sàng giúp cháu nếu cháu cần. Nhưng Mary ạ! Rồi cháu sẽ hiểu, chúkhông thể nuôi không cháu, ông muốn cháu giúp một tay trong việc trông nom lữquán của ông” .
Mary uể oải gấp lá thư lại, cho vào rương. Quả là một lá thưkhông mấy niềm nở đối với hình ảnh của dì Patience vui tính ngày xưa, mà nàngcòn nhớ. Một cánh thư lạnh nhạt làm cho khoảng cách giữa đôi bên như được khơirộng thêm ra. Không một lời an ủi, khuyến khích… Toàn thể như biểu lộ (tuykhông ra lời) cho một cô cháu bất hạnh hiểu rằng đừng trông cậy nơi dì mộtnương tựa, dù cho chỉ là một nương tựa tinh thần.
Trời ơi! di Patience, nàng tiên của Mary thuở nhỏ! Dì nay đãtrở thành một bà chủ lữ quán ở một chốn hoang vu. Tội nghiệp mẹ nàng không haybiết điều này. Dù sao, Mary đã hứa với mẹ rồi và không thể sai lời. Vả chăng,nhà đã bán, làm sao nàng ở lại Helford? Dù sự đón tiếp có ra sao nàng cũng nhớrằng dì là em ruột của mẹ nàng.
Ðời sống ngày xưa đã trở thành quá khứ: nông trại thân yêu,dòng sông trong trẻo ở Helford. Tương lai không có gì hứa hẹn, nhưng nàng vẫnbước đến theo đúng ước vọng của mẹ mình.
*
Mary lên xe ở Helston, đi về miền Bắc, ngang qua Truno ở suốiFal. Tại Truno, nhà cửa đông đúc với những nóc chuông giáo đường, đường lát đáphẳng và rộng; trời còn trong xanh tựa như ở miền Nam. Dân cư đứng ở ngưỡng cửamỉm cười vẫy tay khi thấy xe chạy qua. Nhưng khi Truno mất dạng sau thung lũng,trời tối sầm và đất hai bên đường trở thành khô cằn, quang cảnh tịch mịch. Chỉthấy toàn đất bỏ hoang. Làng mạc thưa thớt và ở khung cửa không còn thấy nhữngkhuôn mặt tươi cười. Không cây cối, không rào dậu. Gió thổi mạnh và mưa to.
Xe đến Bodmin trong tình trạng này. Tại đây trời cũng u ám,bẩn thỉu như những chỗ họ vừa đi qua. Lần lượt, hành khách thu xếp hành lý vàxuống xe, trừ có mình Mary ngồi yên chỗ. Bác phu xe nhìn vào trong, nước mưa chảydài trên mặt:
– Cô đến Launceston phải không? Ðêm nay mà qua đồng hoangnguy hiểm lắm. Tốt hơn cô nên ngủ lại đây rồi sáng mai đón xe đi tiếp…
– Có người đợi tôi, bác ạ. Ðường xa không làm tôi sợ đâu. Vả,tôi không đến Launceston. Bác cho tôi xuống Lữ quán Giao Mai…
– Cái gì? Lữ quán Giao Mai? Cô không lầm chứ? Cô đến đó làmgì? Ðó không phải là chỗ của một thiếu nữ như cô…
Bác phu xe nhìn chầm chập vào Mary, gặng hỏi. Rồi chợt, bácta như hối đã lỡ lời, im lặng đột ngột. Mary trả lời:
– Tôi đã nghe nói đến sự hoang vu của vùng này, nhưng tôicũng chưa bao giờ ở chỗ đông người. Chỗ cũ của tôi cũng vắng lắm. Tôi không…
– Có lẽ cô mới đến nên không hiểu. Không phải tôi muốn nói đếnđồng hoang và ao bùn, dù rằng những thứ ấy cũng làm cho nhiều cô, nhiều bà phảisợ…
Quay lại, bác phu gọi một chị đàn bà đang đốt đèn trướckhách sạn Royal và nói:
– Này, bà đến nói chuyện với cô gái này một tí đi! Cô ta đòitôi chở đến Lữ quán Giao Mai đấy!
Người đàn bà xuống thềm, bước lại nhìn vào xe:
– Ðó là một vùng vắng vẻ lắm. Nếu cô muốn tìm việc làm, cô sẽkhông thể tìm ra. Ở đó, người ta không ưa kẻ lạ mặt. Tốt hơn cô nên ở lại đây.Tôi có thể giúp cô.
Mary mỉm cười:
– Xin bà đừng lo, tôi đến gặp họ hàng. Chú tôi là chủ Lữquán …
Trong ánh sáng lờ mờ, Mary thấy hai người nhìn nàng bằng conmắt sợ hãi. Mary ngừng bặt lại, ao ước bà ta nói vài lời để nàng yên lòng,nhưng không, bà ta rời khỏi khung cửa xe, giọng khác đi:
– Xin lỗi cô. Việc này không liên can đến tôi. Chào cô!
Bác phu xe huýt sáo lên xe để che giấu bối rối. Không kịpsuy nghĩ gì, Mary nghiêng mình ra cửa xe, nài nỉ:
– Xin bác làm ơn cho cháu biết sự thật. Cháu cảm ơn bác lắm.Hình như mọi người đều ghét chú cháu, phải không? Tại sao vậy?
Bác phu xe không che giấu được bối rối, trả lời nhát gừng:
– Lữ quán Giao Mai có tiếng… dữ. Người ta hay kể chuyện ly kỳ…nhưng cô biết đấy: thiên hạ vốn hay lắm điều. Tôi… tôi không muốn dính dáng gì…Có thể không có chi đáng ngại. Cô lạ gì miệng lưỡi thế gian?
– Nhưng thưa bác, đó là những chuyện gì? Bác muốn nói là ởđó người ta khuyến khích rượu chè? Hay chú cháu tiếp những khách không đứng đắn?
Bác phu xe lắc đầu quầy quậy:
– Tôi đã bảo tôi không muốn xen vô chuyện người khác. Vả lại,tôi cũng không biết chi hết. Nhưng một điều tôi biết chắc là những người tự trọngkhông bao giờ chịu ghé vào Lữ quán Giao Mai. Hồi trước, chúng tôi có thói quendừng ngựa lại cho ăn uống và chúng tôi cũng tạt vào quán giải khát qua loa. Bâygiờ ngang đó là quất ngựa chạy gấp…
– Tại sao vậy, hở bác? Bác cho cháu biết đi mà. Cháu mang ơnbác… Mary cố nài nỉ.
Bác phu xe do dự giây lát rồi sau cùng buông xõng hai tiếng:
– Họ sợ!
Rồi lắc đầu, ông ta không nói gì thêm. Và như cảm thấy mìnhđã tỏ ra cục súc với một cô gái, ông ta thò đầu vào khung cửa:
– Cô muốn dùng một chút gì chăng? Một tách trà nóng…? Chúngta còn phải đi xa và ở vùng đất hoang, gió lạnh ghê hồn.
Mary lắc đầu. Nàng còn thiết chi ăn với uống? Chắc chắn vàođó mọi tia nhìn sẽ đổ dồn về nàng và họ sẽ xì xào không ngớt. Hơn thế nữa, Maryđang phân vân: như có một tiếng nói vô hình cảnh cáo nàng: “Chớ đến Lữ quánGiao Mai! Hãy bỏ cuộc hành trình này. Hãy ở lại Bodmin, nếu không…sẽ hối cho màxem!” Mary e rằng vào đến khách sạn Hoàng Gia nàng sẽ nghe theo lời cảnh cáo.Mary nhớ lời hứa với mẹ và muốn giữ được lời hứa đó.
– Nếu cô không ăn uống chi thì ta phải đi ngay. Cô là hànhkhách độc nhất chiều nay. Cô lấy thêm tấm chăn đắp chân lại cho đỡ rét. KhỏiBodmin, tôi sẽ cho ngựa chạy nhanh vì đêm nay không thích hợp cho những chuyếnđi như thế này. Nếu không vì cô, tôi có thể ngủ yên giấc trên giường, nhưng biếtlàm sao…
Bác đóng sập cửa lại và ngồi vào chỗ, chiếc xe cọc cạch lănbánh…
Hai bên đường là nhà cửa. Bên trong người ta an toàn và ấmcúng với ánh sáng tỏa ra từ các cửa sổ. Những bộ hành trễ nải cúi đầu bước vộigiữa mưa gió để kịp về nhà.
Qua khe cửa Mary nhìn thấy ánh sáng le lói, ánh sáng đối vớinàng thật như bạn quí lúc này. Nàng lại liên tưởng đến người đàn bà vui tínhtrên xe lúc nãy. Chắc bà ta đang ăn tối, lũ trẻ kháu khỉnh quây quần xungquanh. Chao! Trông bà ta phúc hậu làm sao, hai má đỏ như hai quả táo chín vàđôi tay gân guốc vì làm việc! Giọng nói của bà ta làm người nghe yên tâm… Marylại tưởng tượng thêm: nàng theo người đàn bà ấy, ở nhờ nhà bà ta. Nàng sẽ tìmđược nơi bà ta sự tin cẩn, một nụ cười, một bàn tay thân yên, một cái giường antoàn. Nàng sẽ giúp việc cho bà ta, yêu mến bà và lũ con bà… Nàng sẽ…
Xe đang lên đèo. Qua cửa kính, nàng thấy ánh sáng của thànhphố Bodmin khuất nhanh sau vó ngựa. Nàng chỉ còn một mình với gió và mưa. Bóngtối vây quanh. Còn những 12 dặm nữa mới đến nơi. Phải chăng nàng là một con tàurời bến, mất hết an toàn của đất liền? Dù thật thế đi chăng, không con tàu nàocó một số phận như nàng hiện tại!
Xe tối om, chỉ một tia sáng mong manh vàng vọt từ một chiếcđèn nhỏ xíu treo cạnh cửa. Gió luồn vào kẽ nứt trên xe làm ngọn lửa chao qua đảolại và có thể làm cháy nệm xe. Thấy thế, nàng phải tắt đèn đi.
Ngồi co ro trong một góc, mặc cho xe lắc lư tiến tới trongbóng tối, hết nghiêng bên phải lại nghiêng bên trái: lần thứ nhất trong đời,Mary cảm thấy tính chất ma quái của sự cô đơn. Cái xe đã đưa nàng đi trọn ngày,giờ đây cũng như đe doạ nàng. Gió hú trên nóc xe và mưa tuôn như thác đổ. Giómưa càng hung hãn khi xe càng lên dốc, trống vắng bốn bề. Hai bên đường đồnghoang trải dài vô tận. Không làng mạc, không cây cối, không cả một chòi tranh.Hàng dặm tiếp, chỉ thấy đồng hoang lạnh lẽo, đất đai cằn cỗi, không vết dấuloài người.