Đau thương đến chết - Chương 7 - 8:
Chương 7. BỎ LỠ NIẾT BÀN
Trên tảng đá cao cách bọn họ hơn chục mét là một tượng người đang ngồi bất động! Nói đúng ra là một pho tượng. Bởi vì người đó ngồi quá lặng im, nên người tinh tế nhất nhóm là Viên Thuyên cũng phải căng mắt mới nhận ra được.
Người ấy mặc một chiếc áo mưa sẫm màu, điều làm cho mọi người ngạc nhiên hơn là trong lúc trời nắng thế này ông ta vẫn sùm sụp chiếc mũ áo mưa chóp nhọn trên đầu, khiến không ai nhìn rõ mặt.
Mọi người đưa mắt nhìn nhau, già nửa ngày trời mới gặp một người lạ, lại ăn mặc như thế, ai cũng thấy sửng sốt. Kiều Kiều bất giác lùi về sau mấy bước, nắm chặt tay Lâm Mang.
Bỗng Viên Thuyên kéo Tiểu Mạn, bảo: “Đi với mình!” Dục Chu cũng bước nhanh lên theo, ba người đến sau lưng người mặc áo mưa, Viên Thuyên hỏi to: “Phiền ông có thể chỉ đường giúp không?”
Người ấy không ngoái lại, dường như lẩm bẩm gì đó.
Viên Thuyên nghe chưa rõ, hỏi lại: “Ông có thể nói to hơn một chút được không ạ?”
Người đó đột nhiên gầm lên, giọng vang như sấm: “Quay lại đi!”
“Gì ạ?” Viên Thuyên không dám tin sẽ nhận được câu trả lời như thế này.
Cuối cùng người đó quay nửa người về phía Viên Thuyên, cả khuôn mặt vẫn bị khuất sau chiếc mũ áo mưa, chỉ có thể cảm giác đây là một ông già. Ông ta nói chậm rãi, giọng khàn khàn cực kỳ già nua, khiến người nghe có cảm giác như tim mình đang bị chà xát.
“Lẽ nào ta nói chưa đủ to hay sao? Quay lại!”
“Tại sao ạ? ” Tiểu Mạn hình như cũng thấy sợ ông già, cô nắm lấy tay Viên Thuyên.
“Biết đây là chỗ nào không? ” Ông ta hỏi.
“Vách Niết Bàn à”. Viên Thuyên vẫn không nao núng, nhìn chằm chằm vào mắt ông già.
“Biết thế nào là “Niết Bàn” không? “
Viên Thuyên cười nhạt, rồi nói: “Cháu biết ông cho rằng bọn cháu đều không hiểu văn hoá, nhưng ít ra cháu cũng biết đại khái Niết Bàn có nghĩa là tái sinh. Hiểu được nó, là rất quan trọng hay sao? “
Ông già cười nhạt: “Bây giờ các người quay lại, chính là từ chỗ chết mà được sống lại, đến lượt cô nói xem có quan trọng hay không?”
Cả bọn đều hít sâu một hơi khí lạnh. Ông ta đang nói gì thế nhỉ?
“Kỳ lạ thật, ông còn chưa biết chúng cháu muốn đi đâu, sao có thể nói đến sống chết gì vậy? ” Viên Thuyên vẫn chưa chịu thôi.
“Trên núi này, thứ hấp dẫn mọi người và cũng khó tìm nhất là hang quan tai. Ta sống núi này đã nhiều năm, bị người ta hỏi nhiều nhất là hang quan tài, ta nghĩ các người cũng không ngoại lệ”
“Ông nói đến hang Thập Tịch phải không? Lẽ nào đã từng có nhiều người đi tìm rồi? ” Lúc này Tư Dao đã hết sợ đi lên mấy bước hỏi.
“Hang Thập Tịch? Các người nghe ở đâu ra cái tên thanh nhã thế? Người đến tìm nó cũng không nhiều, năm nay, các người là tốp đầu tiên.” Ông già quay đi lại ngồi đối diện với thung lũng sâu.
“Hang đó đã thu hút nhiều người như thế, tại sao không có người đến xem? Rất gần điểm du lịch chính thức ở núi Vũ Di, tại sao vẫn chưa được khai thác?” Viên Thuyên rõ ràng đã nghĩ ngợi xa hơn.
“Vì rất ít người biết đến thung lũng này, rất ít người biết đến hang đó.”
“Vậy tại sao những người đã từng vào cái lại không quảng bá về một nơi đẹp thế này?”
“Vì những người đã từng vào hang đó, không còn ai sống sót.” Ông ta nói rất bình thản, như thuật lại một sự thật hết sức bình thường.
Cả bọn kinh hãi, gió thổi tới, ai cũng cảm thấy lành lạnh.
“Ông là ai? Xin lỗi phải hỏi câu này, vì cháu thấy ông nói tiếng phổ thông rất chuẩn, không giống dân địa phương sống lâu năm trong thung lũng sâu này.” Viên Thuyên nói: Cả bọn đều thầm khen cô thật sắc sảo, rất biết quan sát và suy nghĩ thấu đáo.
“Từ nhỏ đã xa quê, đến già ta mới về. Ta sinh ra ở đây, thời thanh niên phiêu bạt bên ngoài, sau khi nghỉ hưu lại về đây. Ta biết câu hỏi của cô thật ra là “sao có thể tin lời ông nói? ” Ta không ép cô phải tin bất cứ kết luận nào, nhưng ta cũng không cần thiết phải nói dối. Doạ các người sợ, ta có được lợi gì đâu! Những người đã từng vào hang quan tài, cuối cùng đều đã chết, vấn đề chỉ là sớm hay muộn mà thôi. Trong thôn nơi ta sống, từ xa xưa người ta đã kháo nhau như vậy. Ta cũng từng chứng kiến người quen trong thôn sau khi vào hang trở về đều chết mà chẳng rõ tại sao.”
“Đã chết như thế nào ạ? “
“Đau thương đến chết.” Ông ta nhấn vào từng chữ.
“Gì ạ?!”
“Lần đầu tiên ta nghe được bốn chữ này từ miệng một thầy giáo tiểu học trong thôn. Hơn chục năm trước, ông ấy là một thanh niên từ nơi khác đến, không tin chuyện ma quái, không nghe dân thôn khuyên nhủ, cứ đi vào động quan tài, một tháng sau thì chết. Bác sĩ trên huyện nói phủ tạng ông ta bị suy kiệt. Trước lúc chết hai mắt ông ta nhìn trừng trừng cứ như là gặp ma giữa ban ngày rồi thốt ra bốn chữ “Đau thương đến chết”. Sau khi ta nghỉ hưu, suốt ngày đi khắp vùng núi này, mới biết bốn chữ ấy quả là rất không bình thường.
“Rất không bình thường như thế nào ạ?” Viên Thuyên truy hỏi.
“Rốt cuộc các người có quay lại không?” Ông già hỏi lại một cách hăm doạ.
“Chuyện ông kể hình như quá ư ly kỳ”. Tư Dao nói. “Nhưng lại khiến cháu cảm thấy hang quan tài càng bí hiểm hơn”.
“Ta phải nói thế nào nữa thì các người mới quay lại?” Ông già xoay người lại như là sắp gầm lên, nhưng lập tức nói ôn hoà: “Ta sẽ không cho các người biết đường vào hang quan tài. Nếu hôm nay các người nhất định muốn đi, tốt nhất là hãy bảo với người thân, bạn bè, chuẩn bị trong vòng nửa năm, thu xếp hậu sự; bởi vì cuối cùng các người sẽ phải… đau thương đến chết”.
Nói xong ông già đứng lên, vóc người cao gầy nhưng lưng vẫn còn thẳng. Ông ta đi luôn xuống núi, Tư Dao bỗng gọi với theo: “Ông ơi, đợi đã!”
Ông già dừng bước nhưng không quay đầu lại: “Ta biết cô là người không tin ta nhất, ta không tin cô sẽ thay đổi ý định”.
“Cháu chỉ muốn hỏi ông, hiện giờ mặt trời đang rực rỡ, sao ông lại mặc áo mưa?”
“Dù bây giờ trời đang nắng, nhưng buổi tối không thể có mưa hay sao?”
“Cảm ơn ông, ông đi nhé!” Tư Dao cười cười.
Đợi ông già đi xa, Kiều Kiều kêu lên: “Chẳng cần biết ông ấy nói là thật hay không, mình cũng không đi vào chỗ chết đâu!”
Tư Dao bật cười: “Điều ông ta nói đương nhiên không thể là thật, ai lại tin những lời hão huyền ấy? Huống hồ, mình đã nhận ra là ông ta nói dối: sáng nay dự báo thời tiết thông báo rõ ràng trời sẽ nắng trong hai ngày, thế mà ông ta lại nói “lẽ nào buổi tối không thể có mưa”. Chẳng qua là ông ấy cố ý nói cho có vẻ bí hiểm mà thôi!”
Tiểu Mạn nói: “Với mình thì đi hay không cũng chẳng sao, vả lại cũng rất khó tìm cái hang ấy. Hơn nữa nếu tìm ra, rồi tối mịt mới về thì gay go!”
Viên Thuyên “hứ” một tiếng, nói: “Cậu cứ nói thẳng ra là cậu quá sợ rồi! Còn cậu Thường Uyển, liệu có phải “đánh trống thu quân” không?”
“Đừng kéo mình vào cuộc nữa, mình mệt rồi, rất muốn về Trung tâm lữ hành tắm gội, thế thì có gì là sai?”
Tư Dao bảo: “Đã đến tận đây rồi thì cố tìm xem sao, trước khi trời tối nếu vẫn chưa tìm thấy thì chúng ta quay về, được không? Nghe ông ta nói như vậy, mình lại càng thấy hứng thú. Anh Dục Chu, anh Lâm Mang nghĩ sao?”
Dục Chu nhìn Viên Thuyên, cười: “Bà chủ gia đình chúng ta đang ở đây, tôi chỉ làm theo mệnh lệnh thôi”.
Lâm Mang nói: “Anh không cho rằng lời ông ta nói là thật, em biết đấy, anh chỉ tin những thứ mắt anh nhìn thấy, còn những thuyết đại loại như cầm tinh con gì, thuộc chùm sao nào, nhóm máu gì… anh đều không bận tâm”.
Tiểu Mạn vốn rất tin những thuyết này nên cô “xuỳ” một tiếng.
Kiều Kiều thì tỏ ra ngán ngẩm, lừ mắt nhìn Lâm Mang. Tư Dao cười nói: “Thôi nào, Kiều Kiều cứ đi với mình, đến đó mình sẽ vào hang; như Viên Thuyên nói, cậu có thể đứng ngoài mà ngắm cảnh, chỉ cần không bị khỉ bắt về làm vợ là được!”
Tiểu Mạn vừa tức vừa buồn cười: “Này, Tư Dao trông cũng ẻo lả như Kiều Kiều, mà lại to gan nhỉ?”
Tư Dao nói: “Thế thì chỉ có thể trách mẹ tôi thôi, bà ấy cũng ẻo lả nhưng lại to gan, việc gì cũng dám làm. Tiếc rằng mẹ mình không còn nữa, nếu không, bà cũng xông xáo đi xem hang quan tài ngay!”
“Vậy cứ quyết định thế đi, chúng ta tìm thêm một hồi nữa, để xem xem ai sẽ đau thương đến đâu, có thể chết vì đau thương không?” Viên Thuyên quyết định. Tính cô vẫn hay nói năng thẳng thắn và cô rất bức xúc với cái câu “Đau thương đến chết”.
Tiểu Mạn lại chăm chú xem bản đồ một hồi, rồi nói: “Hết cách rồi, đành đi liều vậy, đi về hướng đông, hướng mà ông già đó vừa xuống núi”.
Bảy người lại đi tiếp khoảng nửa tiếng, nhìn thấy nhiều cảnh rất đẹp và lạ mắt, nhưng vẫn chưa thấy cái hang nào. Tư Dao luôn im lặng trên đường lúc này bỗng nói: “Mình càng nghĩ càng cảm thấy nếu cứ đi thế này, chắc chắn không tìm được cái hang đó. Chúng ta nên quay về vách Niết Bàn, chỗ vừa nãy gặp ông già kỳ lạ đó, tìm kỹ ở xung quanh xem sao vì tấm bản đồ hày hầu như không có gì nhầm lẫn, tại sao lại không tin chắc vào nó? Nếu không tìm được chúng ta sẽ quay về”.
Viên Thuyên gật đầu: “May quá, mình cũng đang nghĩ thế”.
Tư Dao cười: “Bạn tri âm có khác, nói một chút đã hiểu!”
Tiểu Mạn và Kiều Kiều dù không vừa ý nhưng phải phục tùng đa số, cả bọn lại quay về vách Niết Bàn.
Bảy người tìm kỹ xung quanh, thậm chí nằm nhoài ra mép vách đá nhìn xuống dưới, mà vẫn không tìm thấy hang quan tài.
Viên Thuyên bỗng kêu lên: “Mọi người nhìn kìa!”
Tất cả xúm lại, thấy Viên Thuyên chỉ vách núi trước mặt.
“Gì cơ? Bọn mình chẳng nhìn thấy gì cả!” Thường Uyển hỏi.
“Đau thương đến chết”. Viên Thuyên dường như đang cố gắng kìm nén nỗi kinh hoàng.
“Đâu có gì? Chúng ta đã tìm thấy hang quan tài đó đâu?” Dục Chu cũng cảm thấy kỳ lạ.
Tư Dao “ôi” một tiếng: “Lẽ nào là như vậy? Mình hiểu ý Viên Thuyên rồi, cậu nói là những đám dây leo ở bên dưới vách núi trước mặt chứ gì?”
Viên Thuyên gật đầu: “Đúng, mọi người nhìn xem, những đám song mây đó mọc dày đặc, dường như không theo quy luật gì, nhưng nếu để ý một chút, chỗ vách núi không bị chúng che khuất, nhìn từ trên xuống, có phải có bốn chữ không?”
“Đau thương đến chết!” Tiểu Mạn suýt đánh rơi chiếc ống nhòm xuống dưới thung lũng.
Vùng nham thạch này ở núi Vũ Di là điển hình của “địa mạo Đan Hà” (1), còn chất đá ở vách núi trước mặt lại càng đỏ gắt hơn. Lúc này dưới ánh hoàng hôn, bốn chữ Hán viết theo thể Tân Nguỵ (2) nằm giữa đám song mây như được viết bằng máu tươi, nhìn thật khiếp hãi.
“Xem ra, ông già đó không hù doạ bọn mình đâu. Chưa biết chừng nó chính là thạch khắc”. Giọng Thường Uyển run run.
“Sao thế Thường Uyển? Chỉ thế mà đã sợ rồi à? Trời đã tối đâu!” Tư Dao cũng rất kinh ngạc, trở nên cảnh giác nhưng lòng hiếu kỳ còn lớn hơn, vì cô cảm nhận rõ hình như cô đã thấy cảnh này ở đâu rồi, dù quang cảnh trước mắt có màu đỏ son kỳ lạ và rất đặc biệt.
Mình nhìn thấy ở đâu nhỉ? Tư Dao cảm giác như trong ký ức của mình có một khoảng trống.
Kiều Kiều thì gần như khẩn cầu: “Về thôi, ông già ấy không lừa bọn mình đâu. Mình không muốn bị đau thương đến chết!”
Tư Dao chỉ ráng chiều ở chân trời: “Vậy lý do gì mà ông ta mặc áo mưa? Cũng rất đúng sao? Những câu nói vớ vẩn vô lý ấy, là thứ thông tin vỉa hè thứ thiệt!”
“Kìa, Dao Dao, sao cậu lại ương gàn thế nhỉ?” Kiều Kiều mặt sa sầm tỏ ra rất bực tức.
Lâm Mang nói với vẻ hả hê khoái trá: “Cô ấy vốn vẫn thế, chẳng lẽ em không biết à?” Kiều Kiều tức tối nghiến răng.
“Bởi vì… mình nhận ra hình như mình đã từng thấy cảnh này ở đâu đó rồi, quả là rất kỳ lạ”. Tư Dao không biết lý do này có đủ sức thuyết phục không.
Tiểu Mạn nói: “Bây giờ vấn đề quan trọng nhất là trời sắp tối rồi, chúng ta vẫn chưa thấy bóng dáng hang quan tài, chẳng lẽ cứ tìm kiểu vu vơ thế này à?”
Khi mấy người đang tranh luận, Viên Thuyên đứng bên một tảng đá cao, hết nhìn xuống dưới lại nhìn ra xa. Cô bỗng khẽ kêu lên, chỉ vào vách núi trước mặt: “Nói thật, mình cũng không mấy ủng hộ việc tiếp tục đi cho đến tối; nhưng mình cảm thấy chúng ta có thể sẽ lập tức tìm thấy cái hang đó. Các cậu nhìn về phía kia, nhìn vách núi kia, có nhận ra điều gì không? Có gì khác thường không?”
Vách núi trước mặt đang tắm trong ánh chiều tà đỏ rực.
Tư Dao cũng kêu lên: “Đau thương đến chết!”
Thường Uyển hoảng sợ hỏi: “Cậu nói gì?”
Tiểu Mạn gật đầu: “Mình cũng nhận ra rồi, nhìn mà xem, giữa vách núi trước mặt, có vài mảng đá đỏ khác thường nhô ra, bị ánh dương chiếu vào, đỏ như màu máu, nếu nhìn liên hoàn một mạch, các mảng đá đỏ sẫm này sẽ mờ mờ tạo thành bốn chữ – “Đau thương đến chết”. Khớp lại thì được bốn chữ này, không thể nói là thư pháp gì nhưng cũng thật là kỳ lạ!”
Nghe Tiểu Mạn nói, mọi người cũng đều nhìn thấy rõ. Ai cũng lặng yên suy nghĩ xem tất cả những thứ này nghĩa là gì.
“Mình nghĩ, đây chẳng qua là cảnh quan nhân tạo thôi, làm gì có ai đó đau đớn đến nỗi muốn chết, đã làm ra trò này”. Tư Dao cũng thấy hơi thấp thỏm. “Nhưng sao lại nói là có thể lập tức tìm thấy hang Thập Tịch?”
Viên Thuyên chỉ xuống dưới thung lũng nói: “Các cậu nhìn kỹ mà xem, nhìn tổng thế mấy chữ này đều bề thế rất thoáng, duy chỉ có chữ “chết”, các nét ngang, phảy, móc câu ở bên phải dường như chen sát nhau, chỉ về một hướng ở vách núi. Chính ở chỗ kia… đứng đây có thể thấy thấp thoáng phía trên của khe Ngấn Sa. Mình nghĩ, hình như rất có lý đấy: hồi trước mình đã xem ảnh chuyên đề, quan tài treo ở vùng núi Vũ Di này chủ yếu là quan tài hình thuyền, và đều đặt gần nước, hình như có nghĩa là thuyền chở thi thể, theo dòng nước trôi đến Thiên quốc (3), cho nên rất có khả năng nơi ấy chính là vị trí của hang quan tài.”
Tiểu Mạn hỏi: “Vậy rốt cuộc cậu có ý gì?”
Viên Thuyên đáp: “Mình còn phải tra xét them đã. Nào, ai vẫn muốn đi xem hang quan tài?”
Tư Dao giơ tay không chút do dự, Lâm Mang hơi ngần ngừ rồi cũng giơ tay, Kiều Kiều cố gắng kéo tay anh ta xuống nhưng không ăn thua. Dục Chu nhìn Viên Thuyên, sẵn sàng tỏ ra nhất trí cao độ với người vợ chưa cưới.
“Dao Dao thật sự hứng thú chứ?” Viên Thuyên lại hỏi một lần nữa.
Tư Dao gật đầu, bỗng Lâm Mang nói: “Vẫn còn một cách, nếu các cô đều không muốn đi, thì đừng nên tự ép mình; tôi có thể đi với Dao Dao, bây giờ mấy người cứ về trước đi, có lẽ sẽ xuống đến chân núi trước khi trời tối đấy”.
Kiều Kiều kêu lên: “Anh đừng đùa thế được không?”
Lâm Mang thản nhiên nói: “Anh là người lớn, anh chịu trách nhiệm về hành vi của mình”.
Kiều Kiều bắt đầu rơm rớm nước mắt.
Tiểu Mạn tặc tặc lưỡi châm biếm. Lòng Tư Dao lại chùng xuống: sao Tiểu Mạn cứ nhìn mình không rời mắt thế?
Viên Thuyên chau mày, thở dài: “Thế này vậy, chúng ta cứ thử lần cuối xem suy đoán của mình ra sao, nếu không thấy thì thôi, sẽ xuống núi ngay; còn nếu thấy thì vào xem, chứ mình kiên quyết không tán thành hành động riêng rẽ”.
Tiểu Mạn cười nhạt: “Viên Thuyên chỉ toàn hỗ trợ Dao Dao”.
Viên Thuyên quay lại nói: “Vì mình cũng giống cậu ấy, rất tò mò!”
****************************
Chú thích
(1) Danxia Landform.
(2) Thịnh hành vào thời Nguỵ, thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên.
(3) Miền đất lý tưởng, theo tưởng tượng.
**********************************
Chương 8. HANG THẬP TỊCH – QUAN TÀI TREO – VÀ MÁU
Trời sập tối nhanh hơn cả bước chân người.
Ánh sáng đèn pin không xua nổi bóng tối, mà còn khiến nó càng thêm nặng nề. Nhất là phải đi xuyên qua núi rừng rộng lớn, người ta càng thấm thía thế nào gọi là “lần mò” và “dò dẫm trong đêm tối”.
Kiều Kiều rất tức Lâm Mang. Thể lực cô kém nhưng suốt chặng đường nhờ có Lâm Mang dìu đỡ nên mọi người mới không phải chờ đợi cô. Tư Dao không ngớt ngó nhìn bóng tối bao quanh bốn bề. Cô chợt thấy sờ sợ. Không phải vì sợ bóng tối, mà vì cô nghĩ lại về sự cố chấp của mình. Khu rừng rậm này nếu có mãnh thú thì sao? Nếu gặp kẻ xấu thì phải làm gì?
Xung quanh những tiếng sột soạt không ngớt vọng đến. Tư Dao càng nghĩ càng khiếp hãi. Linh cảm chẳng lành mỗi lúc một nhiều hơn. Đã vài lần cô định nói nên quay về song lại sợ mọi người cho rằng mình tính khí thất thường. Hơn nữa tính hiếu kỳ vẫn mạnh hơn cả vì thế cô tiếp tục dấn bước trong nỗi thấp thỏm.
May sao, như phán đoán của Tiểu Mạn, hướng đi căn bản đúng là vòng về; và nếu Viên Thuyên tính toán không nhầm thì, xem xong hang Thập Tịch rồi trở về đường đi không quanh co quá nhiều.
“Mình cảm thấy sắp đến rồi!” Tiểu Mạn nói.
“Mọi người đều theo kịp cả đấy chứ?” Viên Thuyên cất tiếng hỏi.
“Chờ một chút, chúng tôi lên ngay đây. Hình như Kiều Kiều không được khoẻ”. Lâm Mang nói vọng lên từ chỗ không xa mấy.
Tư Dao càng thấy áy náy hơn, bèn gọi: “Kiều Kiều, cậu có sao không?”
“Vẫn ổn! Tư Dao phải gió ạ, nếu cậu sớm thương tôi thì hay biết mấy!” Kiều Kiều phụng phịu pha chút oán trách.
Đi đầu là Lưu Dục Chu, anh lên tiếng: “Mọi người phải đặc biệt cẩn thận: phía trước là một đoạn khá dốc, phải hết sức chú ý từng chỗ đặt chân, giẫm vào các nhánh dây nhợ ở các kẽ đá, thì chắc ăn hơn, tôi ngờ rằng cái hang ấy ở gần vách núi”.
Leo núi ở quãng này vào ban đêm sao mà chật vật, khiến người ta thấy ánh sáng ban ngày thật cần biết bao. Cũng may, họ đã ra khỏi thảm thực vật ken dày lớp trên lớp dưới, lúc này có thể nhờ vào chút ánh sáng trên bầu trời, tầm mắt đã thoáng hơn lúc nãy.
“Tôi nhìn thấy cửa hang thì phải!” Dục Chu phấn chấn kêu lên.
Lúc này Tư Dao mới thấy yên tâm. Vất vả như thế cũng bõ công, khi nào nhìn thấy những cỗ quan tài treo bí hiểm, chắc mọi người sẽ lượng thứ cho sự cố chấp của mình! Cô ngẩng nhìn. Thảo nào đứng xa không thể nhìn thấy cửa hang, thì ra dây leo chằng chịt dày đặc rủ xuống đã che kín cửa hang; nếu không có một ánh chớp sáng loà nhoáng lên thì dù có đứng ngay trước cửa hang cũng khó bề nhận ra.
Ánh chớp ấy tại sao lại sáng đến như vậy?
Một chuỗi những tiếng sấm ầm ầm dồn dập vọng đến, rồi một tiếng nổ “ùng” vang trời!
Mưa như trút nước!
Tư Dao sững sờ, linh cảm chẳng lành bỗng khiến tim cô thắt lại.
Cũng như mọi người, cô nghĩ ngay đến ông già nọ – ông già mặc áo mưa giữa lúc trời nắng.
Ông ta nói không sai. Dự đoán của ông ta thậm chí trái hẳn với dự báo thời tiết.
Còn những điều ông ta nói về hang quan tài thì sao? Những ai đã bước vào hang, nhất định phải đau thương đến chết, liệu có chính xác không?
Tư Dao gắng bước lên vài bước, đi đến cửa hang; Viên Thuyên đã đứng đó, cả hai nhìn nhau im lặng. Hai cô thân nhau bao năm, đều rất hiểu bạn mình đang nghĩ gì: liệu trong hang có những điều kỳ dị thật không? Dục Chu gạt mớ dây leo đang buông rủ, soi đèn pin vào trong hang. Ánh đèn chẳng khác gì bị hút vào hố đen trong vũ trụ.
“Có lẽ, nếu có quan tài treo thật, thì nó phải ở sâu trong hang”. Dục Chu đoán vậy.
Viên Thuyên nói: “Nơi này khác với các hang quan tài ở vách núi, ở những chỗ đó quan tài không đặt quá sâu”.
Tiểu Mạn và Thường Uyển cũng đã bước tới, đứng dưới mưa cả năm người đều ướt như chuột lột.
“Định vào thật à?” Tiểu Mạn hỏi. Có vẻ như cô dần dần càng thấy tin lời ông già mặc áo mưa.
“Tôi không hiểu nổi ngoài dã thú hoặc kẻ xấu ra, trong hang đặt quan tài treo còn có gì khác mà sợ?” Tư Dao hiểu rõ, nếu tối nay họ không nhìn thấy quan tài treo thì cô cả đời sẽ không thể yên.
Viên Thuyên hỏi Dục Chu: “Anh Chu có mang theo chiếc gậy ấy không?”
Anh hiểu ý, gật đầu: “Có! Anh đã nhờ người sửa lại, có thể dùng nó như chiếc dùi cui cảnh sát; xử lý vài người hoặc dã thú thông thường, không vấn đề gì”.
Tư Dao nghĩ ngợi: “Đúng! Viên Thuyên là bạn chí thân của mình, mọi việc đều phải dựa vào mình”. Mọi nỗi buồn ngày càng nặng nề bấy lâu nay, sự hẫng hụt trong tình cảm, những mối lo vẩn vơ ở công ty… phút chốc dường như tan biến. Cô cười nói: “Thế thì chúng ta còn đứng mãi đây làm gì? Cứ vào đi, ít ra cũng có thể tránh mưa”. Nói rồi cô chiếu đèn pin, gạt đám dây leo đan kín tưởng như gió cũng không thể lọt, và bước vào trước tiên.
“Cẩn thận đấy!” Viên Thuyên bước theo ngay.
Cái hang khá rộng, nền cũng tạm coi là bằng phẳng, chỉ hiềm đang ngập nước. Tư Dao thận trọng thăm dò xem nông sâu ra sao, cô bước đi chừng vài mét, hình như đây là một cái ao.
“Dặn mọi người phía sau, nếu muốn vào hang không bị ướt giày leo núi hoặc giày thể thao, thì tốt nhất là cởi giày ra. Nước sâu đến đầu gối, đáy là đá cuội, không đau chân đâu! Nước rất trong, na ná như nước suối”. Cô cúi xuống đưa tay vục nước, nhấp thử một ngụm. “Uống cũng dễ chịu, hơi ngòn ngọt, nó là nước khoáng chính cống đây!”
Viên Thuyên và Dục Chu soi đèn pin đan nhau cùng quan sát, chỉ thấy vách hang nhô ra các mỏm đá to nhỏ đủ mọi hình thù; tựa như các hang động thường gặp.
“Chao ôi!” Tiếng reo kinh ngạc và mừng rỡ của Tư Dao. Nhưng chẳng ai nhìn thấy bóng cô.
Cả hai vội bì bõm lội tới, đi vòng qua một vách nhỏ thì thấy Tư Dao đang đứng chôn chân dưới nước ngẩng nhìn lên. Cả hai cũng nhìn theo và cùng kêu to.
Phía trên cao bỗng thoáng rộng hẳn ra, ánh đèn pin sáng quắc cho thấy nóc hang cao đến vài chục mét, nở rộng ít ra cũng đến hai chục mét. Ba cỗ quan tài treo từ nóc buông xuống, hai cỗ khá to gần mặt đất hơn, là kiểu quan tài thuyền (1) điển hình; cỗ thứ ba nhỏ hơn, hình khối hộp chữ nhật thường thấy, trông đen xỉn, được treo rất cao cách nóc hang chừng chục mét.
Nhìn kỹ, họ thấy hai cỗ quan tài to kia được treo trên hai thanh xà ngang bằng đá nhô ra từ vách hang; cỗ quan tài cao nhất được treo bằng dây chão rất lớn thả từ nóc hang xuống. Dây chão ấy bằng kim loại hay thứ gì khác thì nhìn không rõ.
Tư Dao rất hào hứng nhưng cũng có phần kinh hãi: vì toàn cảnh quan tài treo này trông quen quen.
Tiểu Mạn và Thường Uyển ngoài cửa hang gọi vào: “Trong đó có gì hay không?”
Viên Thuyên không giấu nổi niềm vui, đáp luôn: “Chẳng có gì hay, chỉ thấy vài cỗ quan tài treo thôi. Chẳng đáng để các vị chiếu cố vào xem đâu!” Cô rất hiểu tính mấy người bạn thân này, ngấm ngầm khích họ mới là thượng sách.
“Đừng nói dối nhau, cả ba đã vào lâu như thế, chắc chắn phải có chuyện rất thú vị!” Rành rành là Tiểu Mạn đã “trúng kế”. Đúng thế, tiếng lội nước vang lên.
“Liệu Kiều Kiều và anh chàng Lâm Mang có vào không?” Viên Thuyên hỏi Tiểu Mạn và Thường Uyển đang rất ngạc nhiên vì lần đầu nhìn thấy quan tài treo.
Trầm trồ hồi lâu, Thường Uyển mới nói: “Thôi nào! Hai người ấy đang xoắn lấy nhau. Kiều Kiều thì không dám vào, Lâm Mang thì mắt không rời cửa hang, nói là Kiều Kiều cứ đợi; anh ấy đang rất muốn vào”.
Tiểu Mạn cười khẩy: “Không đơn giản đâu! Tôi thấy anh ấy mắt không rời Tư Dao thì có. Này Tư Dao, có phải ngày trước cậu và anh ấy đã cắt đứt thật sự không?”
Tư Dao đáp: “Tất nhiên! Đã thực thi chính sách “ba không”: không thư từ, không điện thoại, không gặp gỡ, đã được coi là triệt để rồi chứ? Chỉ chưa đào tận gốc trốc tận rễ mà thôi!” Ai nấy đều bật cười.
“Xem chừng có những anh chàng thật trơ trẽn, cứ muốn người ta phải nói trắng ra, rồi mới thấy tiếc nuối. Anh Dục Chu đừng nghĩ là ám chỉ mình”. Tiểu Mạn tỏ ý bất bình.
Dục Chu định phản bác, nhưng chợt nghe thấy tiếng lội nước ở phía cửa hang, Viên Thuyên thì bóp vào tay anh, anh bèn im lặng.
“Vậy là Kiều Kiều vẫn vào! Rất đáng khen đấy!” Viên Thuyên cười nói.
Kiều Kiều kinh ngạc nhìn ba cỗ quan tài treo, thật sự tấm tắc: “Ôi! Rất đáng để vào đây!” Cô chiếu đèn pin vào cỗ quan tài nhỏ: “Nó được treo cao thật!”
Cô cảm thấy có một giọt nước từ quan tài rơi xuống, trúng vào mũi.
Trong hang ẩm ướt, nước rỏ xuống là chuyện bình thường, Kiều Kiều chẳng bận tâm.
Lại một giọt nữa rơi lên trán.
Cô thấy là lạ, hình như không giống như nước bình thường, nó hơi dinh dính. Cô quệt đầu ngón tay lên trán rồi giơ ra trước ánh đèn pin: một đốm màu đỏ tươi!
Cô xoa tay lên mũi và soi nhìn lòng bàn tay: một vệt đỏ tươi.
Kiều Kiều kinh hãi thét lên, chiếc đèn pin rơi luôn xuống nước.
“Máu… máu…”
“Kiều Kiều sao thế? Bị xước da ở đâu?” Tư Dao hỏi.
“Không! Mà là máu rơi từ quan tài xuống”.
Các ánh đèn pin đều lia lên cỗ quan tài treo cao nhất. Đúng thế, bên ngoài cỗ quan tài đen hình như có một vệt dính đọng.
Viên Thuyên rọi đèn lần lên theo vệt đó, tìm chỗ bắt đầu rỉ ra, đó là khe nắp quan tài; bên trên hình như dây chão cũng có vết thấm ướt “máu”.
Chiếu đèn lên cao nữa. Trời ơi!
“Vệt máu” từ một cái móc sắt to tướng chìa ra từ vách hang để buộc sợi chão, rồi loang vào vách hang; thoạt đầu chỉ là một đường, loang mãi đến chỗ cách mặt nền chừng 20 mét thì hợp thành bốn chữ đại tự theo lối Hành – Thảo (2) màu đỏ thẫm.
Đau thương đến chết
Nét cuối cùng của chữ “chết” tiếp tục loang xuống đến một mỏm đá hình cái mũi nhô ra, cách mặt nền chừng ba mét. Thỉnh thoảng một “giọt máu” rơi xuống một vũng nước phía dưới, lắng nghe có thể thấy tiếng tí tách…
Đến gần hơn, họ nhìn thấy một vũng nước rộng chừng một mét, nằm ở vị trí cao hơn nền hang chừng nửa mét, nó là một cái “ao máu” thật sự! Cúi xuống ngửi, thấy mùi tanh tanh.
Tư Dao run run nhúng tay trái vào “ao máu” rồi rút ra, cả bàn tay cô “nhuốm máu”!
Chính lúc cô rút tay ra thì ao máu đó rùng rùng khá mạnh, một “bóng đen” vọt lên quấn lấy cổ tay phải của cô đang cầm đèn pin. Cô hoảng hốt kêu len và vội vẩy tay, một con rắn nước thân to bằng ngón tay cái, chuồi nhanh khỏi tay cô trườn vào ao nước mà mọi người đang đứng. Mọi người thi nhau hét inh ỏi, không rõ vì cái ao máu, bàn tay nhuốm máu hay vì con rắn kia. Lâm Mang vội hùng hồn lên tiếng: “Mọi người đừng nháo nhác lên, đừng sợ, rắn nước thường không có nọc độc; nó không cắn Tư Dao thì cũng sẽ không cắn ai cả. Thôi, chẳng đứng đây lâu làm gì nữa, ta rút ra ngoài cửa hang, cố gắng bình tĩnh đi!”
“Nước dính tay Dao Dao và Kiều Kiều không phải là máu thật à?” Viên Thuyên hỏi.
“Thấy tanh tanh, dinh dính, nhưng mình không dám nếm thử”. Tư Dao vẫn còn run rẩy.
“Đừng nếm làm gì”. Kiều Kiều cũng thấy sợ nhưng cô vẫn xoay mình lại, móc trong túi ra một lọ thuốc nho nhỏ, dốc cho thật sạch, một tay bám vào cánh tay Tư Dao, tay kia múc “nước máu”. “Mình phải đem về, nhờ người xét nghiệm xem có những thành phần gì”.
Mọi người lần ra cửa hang, vẫn ổn cả. Họ vội rảo bước ra ngoài. Mưa vẫn như trút nước, chớp sáng sấm rền bất tận, nên họ đành lùi vào trong cửa hang.
“Ta nên làm gì? Chờ mưa tạnh hay là cứ xuống núi ngay bây giờ?” Tiểu Mạn có phần ngán ngẩm. Cô không nói rõ ý nhưng ai cũng hiểu rằng, nếu còn nán lại trong hang chẳng biết còn chuyện gì khác nữa; nhưng nếu xuống núi ngay thì mưa to đường trơn, sẽ rất khó khăn.
Kiều Kiều nói: “Mình chịu không dám ở lại thêm nữa, cứ đi khỏi đây rồi tìm một chỗ khác trú mưa cũng được. Vả lại, trên này quá cao, gió thổi mạnh, rét quá…”
“Được, thế thì xuống núi. Nếu tìm được chỗ tử tế hơn để trú mưa thì quá hay”. Viên Thuyên lom khom lần bước xuống dốc trước tiên, và gọi ngay: “Mọi người phải cẩn thận, đá trơn lắm. Nhưng cũng chẳng còn lối nào khác, đành dò dẫm mà đi xuống vậy, coi chừng bị trượt chân!”
“Lẽ ra chẳng nên đến xem cái hang này mới phải!” Kiều Kiều oán trách.
“Lúc này nói thế cũng vô ích thôi. Về, cứ bắt Tư Dao và Viên Thuyên chiêu đãi một chầu là được!” Thường Uyển nói xong, cũng dò dẫm bước theo Tiểu Mạn.
Tư Dao buồn bã nhìn cảnh gió mưa, có phần áy náy; cô nói với Kiều Kiều giọng năn nỉ: “Đúng là tại mình. Cậu đừng trách móc nữa. Về rồi, mình xin mời cậu đi ăn”.
Kiều Kiều phì cười: “Biết lỗi rồi sửa mới là ngoan! Khỉ thật, mình cũng có chân kia mà, cũng là tại mình! Đã nói là không muốn đi, thế rồi lại đi, thì sao trách cậu được?” Cô hơi bực mình nhìn sang Lâm Mang.
Lâm Mang có ý xin lỗi: “Được, Kiều Kiều. Anh biết lỗi rồi. Về đến Thượng Hải ngày nào anh cũng sẽ mời cơm… và nấu cơm cho em ăn cũng được”.
Tư Dao cảm thấy hai người đó bắt đầu đến lúc chớt nhả, nên tránh đi thì hơn, cô bèn quay ngoắt người bước xuống luôn.
Đoạn này độ dốc rất khiếp, mọi người đều rất thận trọng dần dần lần xuống. Tiếp đó là một rẻo đường rất hẹp, trận mưa to khiến nó hết sức lầy lội; cũng may, khi lên núi họ đã đi qua lối này; nó hơi thoai thoải, không cần phải chân đi tay bám như đoạn dốc vừa nãy.
Thế là có thể coi như không bị giam trên núi. Tư Dao nghĩ, có đúng là mình đã có một quyết định sai lầm hay không? Những lời của ông già bí hiểm nọ, đều là thật không? Nếu những câu tiên đoán ấy đều ứng nghiệm, thì mình chỉ nói một lời xin lỗi là sẽ xí xoá được cả hay sao?
Quá ư hão huyền! Này Tư Dao ạ, chớ nên vướng vào thứ suy luận vu vơ ấy!
Mưa ngớt rồi lại mưa tiếp. Đoạn đường tiếp theo không gặp trở ngại mấy. Lâm Mang rảo bước lên phía trên, vừa đi vừa nói với Dục Chu mấy câu về công việc. Anh bật đèn pin chiếu trở lại phía sau, rồi bỗng thất thanh: “Kiều Kiều đâu? Không thấy Kiều Kiều đâu cả!” Anh lập tức chạy trở lại.
*****************************
Chú thích
(1) Khoét thân cây to, rồi đặt tử thi vào.
(2) Thể chữ Hán gần với thể Thảo thư, các nét hầu như