Đau thương đến chết - Chương 43 - 44 P2:
Chương 43
CHẾT ĐAU THƯƠNG
Ông đã sớm biết mình không được cái thành phố này dung thứ hoặc nói cách khác, ông sẽ không được cái “thế giới bên ngoài” ấy chấp nhận.
Vốn là một đứa con của núi rừng nhưng mọi thứ ông đã trải qua không phải như cách nói cũ rích “trẻ con nhà quê chỉ là hạt bụi của thành phố”. Với ông, thành phố hay nông thôn hoàn toàn không phải là điểm mấu chốt mà vấn đề nhân tính – bản tính con người kể từ thời Bàn Cổ Nữ Oa, Adam Eva đến nay là phức tạp và quanh co nên đã dẫn đến bao nhiêu bi kịch. Ông chỉ đóng một vai rất nhỏ trong các tấn bi kịch đó.
Tiếc thay khi ông nhận rõ điều này thì đã quá muộn. Sai lầm lớn nhất đã xảy ra, bát nước đánh đổ khó bề vét lại.
Ông là con người không biết đến hai chữ hối hận, đã quyết định làm việc gì, dù sai cũng dám nhận, nếu có cả trăm cơ hội làm lại, cũng vẫn chỉ lựa chọn như cũ. Tuy các bô lão trong thôn kể đã trăm lần về câu chuyện lưu truyền trong cái vùng khuất nẻo của họ: những thanh niên nào bỏ thôn mà đi xông pha bên ngoài, ai cũng đau thương đến chết nhưng ông bỏ ngoài tai câu chuyện ấy.
Cả thôn vài trăm người, ai cũng tin điều đó nhất là sau khi xảy ra rất nhiều câu chuyện đau thương đến chết. Hồi đó ông là đứa trẻ thông minh nhất thôn, không tin chuyện này đã dám phạm cái sai lầm ấy.
Hồi ấy ông 14 tuổi cực kỳ ham học và cho rằng đã học hết y thuật của các bô lão trong thôn. Sau khi cha mẹ qua đời, ông sống với chị gái. Ông lén ra khỏi thôn, đi học nghề của một thầy thuốc đông y nổi tiếng khắp huyện Sùng An. Ngoài 20 tuổi, ông đã nổi tiếng gần xa.
Lòng ham hiểu biết ngày một mạnh, ông trở nên uyên bác về đông y dược, nhưng cũng hiểu những điểm kỳ diệu của tây y dược. nhân cơ hội “công nông binh được đi học cử tuyển đại học”, ông đã vào đại học Y số 2 Giang Kinh nổi tiếng cả nước, tốt nghiệp với kết quả cao, được ở lại dạy học và trở thành một nghiên cứu viên trẻ nhất của phòng nghiên cứu đông tây y kết hợp. Ít lâu sau ông lập gia đình với một cô gái xinh đẹp tuyệt vời.
Cho đến khi ấy ông vẫn ngoan cố cho rằng, cách nói “hễ ra ngoài núi thì phải bị đau thương đến chết” chỉ là tập hợp của những câu chuyện đau khổ hoàn toàn không có căn cứ khoa học, nói khó nghe một chút thì đó là sự mê tín rồ dại vào số phận.
Nhưng rồi “đau thương đến chết” đã xuất hiện, nó còn ngoan cố hơn cả ông.
Ấy là một điều bí mật được giữ rất kín. Hết đời này sang đời khác, cứ sau hơn chục năm thì thôn của ông lại xảy ra một trận dịch kỳ quái, khiến hàng loạt người và gia súc bị đột tử. Không ai có thể nói rõ tại sao lại xảy ra trận dịch như thế, và lại có cái quy luật ấy, kể cả nguyên nhân tử vong. Nghe nói, thường là một người trong nhà chết trước, vợ hoặc chồng đau buồn, ít lâu sau cũng đột tử. cứ như thế mãi, dân thôn bèn gọi trận dịch ấy là “chết đau thương”. Mỗi khi có dịch, bắt đầu có người chết thì dân thôn nhẫn nại quan sát ít lâu, không đụng vào thi thể, thậm chí không chôn cất. Họ chỉ đưa những ai đã tiếp xúc với nạn nhân đi xa, đến ở tại các gian nhà tạm đã cất sẵn, và dùng cách đặc biệt để “khử độc” cho họ. Nếu trong vòng một tháng có 5 cái chết tương tự xảy ra, thì cả thôn sẽ mặc áo mưa – tức là áo tang mà từ nhiều đời nay họ thường dùng – sau đó di dời vào sâu hơn trong núi, tránh xa cái nơi đã bị ô nhiễm. Địa điểm cũ sẽ bị đốt trụi. Sau khi trận dịch qua đi, họ sẽ lập cho người chết một tấm bia không chữ. Họ cũng rất gàn dở cho rằng, những người chết không rõ nguyên nhân như thế, tức là chết khốn khổ, là bị trời trừng phạt.
Thôn này cứ sau hơn 20 năm lại di rời một lần là vì thế.
Các bô lão của thôn cứ khăng khăng phải chuyển vào sâu trong núi, vì họ cho rằng cả thôn đã bị nguyền rủa, phải chịu tai họa dịch bệnh lặp đi lặp lại mãi. Càng tránh xa người đời sẽ càng đỡ mắc dịch bệnh.
Tại sao lại là một lời nguyền? Ông nghĩ, nếu có thật thì chẳng qua chỉ là một thứ tập tục kéo dài hàng trăm ngàn năm ở trong thôn. Dân thôn già trẻ gái trai mỗi năm phải một lần “thay máu” tức là, để cho các loại côn trùng độc như rết, đỉa, bọ cạp… hút máu, nếu người lạ chợt nhìn thấy sẽ ngỡ là “chọn độc”, thực ra nó hoàn toàn khác hẳn “chọn độc”. “Chọn độc” là lợi dụng chất độc của chính con bọ để chế thuốc độc, còn “thay máu” là dùng côn trùng hút các chất độc đang có trong máu người. Dân thôn hiểu về sinh lý người là thế này: đời người ta lao động, ăn uống nghỉ ngơi… luôn bị chất cặn đọng trong người, vì thế mà cần có hệ bài tiết. Tại sao con người thường mắc các chứng bệnh và về già thì ốm đau mà chết? Vì “chất độc” trong máu chưa thải hết, nếu không bị đọng các “chất độc” thì con người có thể thọ đến ngàn năm, như các bậc thánh nhân mà sử sách cổ vẫn chép. Có vị bô lão trong thôn còn dẫn ra ví dụ trong “kinh thánh” rằng tổ tiên của người phương tây đã sống đến ngàn tuổi. Sau khi “thay máu”, nếu có ai bị trúng độc do côn trùng cắn, thì dân thôn lại có các loại thảo dược và cao dán để giải độc. Cái lối “thay máu” kỳ cục này thường bị người bên ngoài cho là quái gở độc ác.
Vì mọi người đều tin thôn này bị một lời nguyền, cho nên vào thời Minh, nhân một lần có bệnh dịch, quan phủ đã đem binh mã đến hủy diệt cả thôn, chỉ có hai hộ sống sót vì đang đi săn chưa về, nên đã giữ được “nòi giống” và truyền thống. Có lẽ vì chuyện này mà các bô lão kiên quyết xa lánh chốn phồn hoa.
Đồng thời cũng có một truyền thuyết còn lâu đời hơn nữa, liên quan đến hang quan tài treo ở núi ngoài xa hơn chục cây số. Nghe nói ở hang đó có một lời nguyền, cấm vào, ai đã vào thì sau không đầy nửa năm sẽ phải chết. Một thầy giáo trong thôn đã từng dạy ông không nghe lời khuyên, đi vào đó một lần, sau ba tháng thì chết trong lúc ngủ. Người vợ mới cưới khóc than thảm thiết, chẳng bao lâu cũng chết, lúc chết, mặt vẫn đầy nước mắt.
Các bô lão trong thôn cho rằng lời nguyền ở hang quan tài và chất độc ngầm ở gần đó liền với thôn này, là nguyên nhân dẫn đến dịch bệnh.
Ông không thể quên năm 1980, nhận được bức thư của chị gái gửi từ thị trấn Hoa Tây kể, trong thôn có hai con gà và một con lợn bị chết, chết rất lạ lùng – không bị thương, không có dịch lợn ốm gà rù mà bỗng dưng lăn đùng ra chết. Các bô lão nói “chết đau thương” lại bắt đầu rồi đấy! Cuối thư, người chị còn nói là rất sợ, sợ ít lâu nữa mình cũng “chết đau thương”
Người anh rể của ông bị tính tò mò thôi thúc, nên trước đó hai tháng đã vào hang quan tài.
Ông và người chị gái hết sức yêu thương nhau. Cha mẹ qua đời trong trận dịch bệnh “đau thương đến chết” hồi trước. Người chị đã rất chịu khó lao động, dè xẻn thu vén để nuôi ông trưởng thành, rồi có thể sống độc lập. Ông còn nhớ, chị đang tuổi xuân nhưng quanh năm chỉ mặc áo vá chằng vá đụp. Ngày chị đi lấy chồng, cũng là lần đầu tiên được mặc áo mới.
Nếu những chuyện đồn đại kia là thật, thì ông sẽ bất chấp tất cả để cứu chị gái mình.
Ông trở về thôn, trong thôn đã có một người chết. Đêm hôm đó ông bí mật vào căn nhà có người chết, giải phẫu cái tử thi bị vứt nằm đó. Sau bao năm học y và trải qua thực tế, ông không thể lại tin cái tập tục cổ hủ của thôn. Ông biết, đã là bệnh dịch thì phải có virus hoặc vi khuẩn hoành hành, cần điều tra nguyên nhân tử vong, tìm căn nguyên bệnh tật – đó là con đường duy nhất để chữa và phòng bệnh
Quả tim của người ấy đã chết bị to lên rõ rệt, cơ tim có nhiều vết rạn nứt.
Ông lấy mẫu máu, mẫu các chất dịch khác, và lấy các mẫu tổ chức cơ tim, rồi trở về đại học Y Giang Kinh. Qua nghiên cứu, trưng cầu ý kiến, thực nghiệm… Ông có thể khẳng định, đó là đột tử do bệnh viêm cơ tim. Ít hôm sau, ông cũng đã nhận diện được virus Ke-sa-ji. Bằng tri thức và trực giác, ông cho rằng loại virus này lây nhiễm qua đường huyết dịch, cho nên mới xảy ra hiện tượng vợ chồng lần lượt tử vong. Còn tập quán hủ lậu “thay máu” chỉ tổ khiến virus càng dễ phát tán trong thôn mà thôi.
Nhìn từ góc độ dịch tễ học, việc bùng phát dịch do nhiễm virus thường có tính chu kỳ và theo mùa. Có lẽ mới có hiện tượng cứ sau 20 năm lại xảy ra một lần.
Ông lại trở về thôn, nhiều lần dặn dò nhấn mạnh người dân phải chú ý giữ vệ sinh, còn định sẽ báo cáo với cơ quan chuyên trách về phòng chống bệnh dịch. Cũng vì thế mà nảy ra xung khắc căng thẳng giữa ông với các vị cao niên trong thôn. Các vị bô lão cho rằng, nếu các cơ quan phòng chống dịch vào cuộc thì truyền thống “thay máu” sẽ bị chỉ trích, thậm chí sẽ tái diễn nạn cả thôn bị “tàn sát”. Ông ra sức thuyết phục họ nhưng đều vô ích. Ông than thở, đầu óc con người ta, thậm chí cả những nét văn hóa hủ bại, tồn tại sao mà dai dẳng đến thế!
Cuối cùng, vì tôn trọng các vị cao tuổi và truyền thống địa phương, ông hứa sẽ không đi báo cáo, nhưng vẫn dặn bà con không nên làm cái trò “thay máu” nữa. Khi ông sắp lên đường, thì người anh rể đã từng vào hang quan tài bị đột tử.
Đó là ca tử vong thứ hai.
Chị gái ông trở nên góa bụa, bỗng dưng bị coi là đồ “quái vật” đáng sợ, dân thôn đều biết người chết tiếp theo phải là chị ấy. Người chị gái ông chỉ còn biết khóc than.
Ông bèn thay đổi ý định: ông viết thư nặc danh cho Trung tâm vệ sinh dịch tễ của tỉnh. Nào ngờ vị bác sỹ được trung tâm cử xuống, dân thôn viện cớ vì ông ta đã tiếp xúc với tử thi, nên bị cưỡng ép “khử độc”, ông bị tổn thương tinh thần rất nặng nề. Sau sự kiện này ông cảm thấy mình không thể dính dáng đến cái nôi mà mình đã trưởng thành nữa, ông kiên quyết đưa chị gái trở về Giang Kinh.
Sau khi về Giang Kinh, ông miệt mài trong cuộc tìm kiếm phương pháp điều trị. Ông cảm thấy mình thực chẳng khác châu chấu đá xe – vì xưa nay chưa từng có được phương án hữu hiệu để điều trị virus truyền nhiễm, nhất là đối với các loại virus lạ còn chưa rõ về mặt bệnh lý. Chẳng bao lâu sau, ông nhận thức rằng có lẽ con đường thật sự là đông tây y kết hợp – đây cũng là sở trường của ông.
Đông y có một số cách điều trị không khác biệt nhiều so với tây y, coi nâng cao thể lực là chính, điều trị trực tiếp vào bệnh trạng, nhưng đã không thể chặn đứng tiến triển của bệnh tật. Người chị của ông đang đau buồn vì người chồng ra đi, sau đó cũng mắc chứng rối loạn nhịp tim rõ rệt, có thể bất chợt ngã gục và vĩnh viễn bỏ ông mà đi, điều này thường xuyên nhắc nhở ông không được quên: Ông còn chưa kịp báo đáp công ơn dưỡng dục của người chị. Bởi thế miệt mài đêm ngày với các thí nghiệm dược lý đối với động vật và thực may mắn, ông cảm thấy đang dần tiến đến mục tiêu.
Chính vào lúc này thì tai họa lại nảy sinh.
Ông đã không thể nhớ rõ, kể từ khi ông nhận được thư của chị gái, đã bao lâu rồi không liên lạc với vợ. Phần lớn thời gian của ông đều trôi đi trong phòng nghiên cứu và bệnh viện. Hầu như ông đã quên mình đang có một cô vợ xinh đẹp như hoa, rất cần ông âu yếm.
Người vợ lại rất nhạy cảm và đa nghi nữa. Sau vài lần thăm dò, nàng cho rằng trái tim của người đàn ông rất tài ba đã không còn ở bên nàng nữa, Nàng tôn trọng tình cảm chị em và tình nghĩa của ông, nhưng nàng là một cô gái luôn cần đến rất nhiều tình yêu. Hơn nữa một người đàn ông rất khao khát tri thức, rất yêu nghề, có thể quên cả sinh hoạt đời thường để nghiên cứu khoa học – thì chẳng thể là một người chồng tốt. Điều duy nhất mà nàng cần, lại là một người chồng tốt, có thể cùng nàng đi xem phim, luận bàn tiểu thuyết, trao đổi với nhau những điều tâm đắc, có thể khoác tay nhau đi dạo trên đại lộ thoáng mát…
Và, ngay gần bên nàng lại đang có một chàng trai cũng rất tài hoa, luôn mong mỏi được chiều chuộng nàng đủ bề và làm một người chồng tốt của nàng. Người chị gái của nàng – người rất hay xen vào cuộc sống của cô em – đã khuyên nàng rất nhiều, nhưng đều vô ích.
Vợ chồng ông đi đến hai quỹ đạo khác nhau và ngày càng cách xa nhau.
Xa thêm nữa, rồi vĩnh viễn chia tay.
Ông hoàn toàn không ngờ vợ mình lại thay lòng đổi dạ vào lúc này. Và cũng chỉ đến lúc này ông mới nhận ra mình rất yêu vợ nên không sao chịu đựng nổi đớn đau đến cùng cực.
Có lẽ tình yêu của ông chỉ có ngần ấy, chỉ có thể dành cho một người.
Ông cố gắng níu giữ, nhưng ý người vợ đã quyết
Rồi, họa vô đơn chí, chị gái ông lại đột ngột ra đi. Chứng rối loạn nhịp tim dẫn đến đột tử.
Ông thật sự suy sụp!
Chương 44
TẤM ẢNH NGÀY XƯA
“Những chuyện tôi biết, chỉ có thế”. Bà Đỗ Dung nói rất lâu, vẫn có vẻ cảnh giác nhìn Du Thư Lượng.
Bác sỹ Lượng mỉm cười: “Bác đừng ngại gì, bác cứ làm như cháu đang hỏi cung bác vậy hay sao?”
Bà Dung bật cười, nhưng rồi lại căng thẳng ngay: “Dao Dao có biết những tin tức mà các anh nghe ngóng được không?”
“Hiện giờ chưa biết, nhưng có lẽ trước sau gì cũng nên nói với cô ấy… Về sau, bác không biết tin gì về Đậu Hoán Chi à? Bác không tiếp xúc với ông ta, nhưng chắc rằng, ông ta là một người yêu ghét phân minh, chắc rất hiểu ngày đó bác đã có lòng cứu vãn cuộc hôn nhân của họ, ông ta sẽ rất kính trọng bác, sẽ thể hiện ra bằng một hình thức nào đó mới đúng…”
Bà Dung há miệng, lại mím lại, rồi nói: “Không, tuyệt đối không. Hiện nay chú ấy sống chết ra sao tôi không hề biết. Những người quen chs ấy hồi đó, đều cho rằng chú ấy đã chết. Chú ấy rất giỏi mọi bề nhưng về tinh thần thì có lẽ hơi yếu mềm; nếu cứ kiên trì để trở thành một chuyên gia thần kinh như anh thì tốt quá, chú ấy sẽ không đến nỗi tự hủy cả tương lai của mình”.
“Cho nên, cũng vì chuyện kia, vì bất bình thay cho ông ta, nên bác mới… ít qua lại với bà em gái Đỗ Nhược. Và cuối cùng không mấy thân mật với Tư Dao?
“Dao Dao rất tốt, nhưng nó quá nặng lòng với cha mẹ, ngày trước ông bố rất chiều nó.. hồi ấy có thể coi đó là một gia đình hạnh phúc. Đến nay đôi lúc nghĩ lại tôi cũng thấy mình hơi quá đáng – ý tôi nói về việc tôi không đến đưa đám tang cha mẹ Tư Dao. Nó rất hận tôi về chuyện này. Nhưng tính tôi là thế thì biết làm sao được? Tôi có tuổi rồi, đâu dễ gì mà thay đổi được?”
Du Thư Lượng ngẫm nghĩ câu chuyện về Đậu Hoán Chi, anh bỗng gai người: nếu người mặc áo mưa chính là nhân vật ban đầu tung ra bức thư điện tử để dụ Tư Dao và các bạn vào hang Thập Tịch, thì liệu ông ta có phải Đậu Hoán Chi không? Có khá nhiều chi tiết phù hợp: người già, mặc áo mưa, nói chuẩn tiếng phổ thông, có oán thù với người nhà cô. Nếu đúng là thế, thì nhân vật mặc áo mưa là người đang trả thù, tước đoạt hạnh phúc của cô. Bà Đỗ Nhược và chồng đã qua đời, thì ông ta nhằm vào cô con gái của họ.
“Cháu muốn hỏi bác câu cuối cùng: bác có nhớ bà Đỗ Nhược kết hôn lần thứ hai là vào tháng nào không?”
Bà Dung ngớ ra, nhưng lập tức cười cười: “Anh khéo nói vòng vo nhỉ? Sao không hỏi thẳng luôn? Hai người lấy nhau sau một năm thì mới sinh Dao Dao. Nó là người họ Mạnh, không thể sai đâu!”
Bà này cũng sắc sảo đấy, Thư Lượng ngẫm nghĩ, rồi đứng lên chào ra về. Anh đưa tấm danh thiếp cho bà Dung, nói bằng một giọng trầm ngâm: “Hiện giờ, tìm được ông Đậu Hoán Chi là cơ hội duy nhất để chữa khỏi cho Tư Dao, vì ông ta đã từng dày công nghiên cứu cách điều trị bệnh truyền nhiễm quái ác này bằng phương thức đông tây y kết hợp. Ai cũng mong Tư Dao sẽ bình phục, cả bác và cháu sẽ cùng nỗ lực; hy vọng ông Hoán Chi vẫn còn sống, để ra tay cứu chữa cho Dao Dao”/
Bà Đỗ Dung lại sững sờ, câu nói này rất đúng với tâm trạng của bà: tại sao mình không sớm nghĩ ra nhỉ? Xem chừng, đôi khi lòng cảm thông lại làm hỏng việc.
“Không có chút tiến triển nào”. Ba người đang nói qua điện thoại, giọng Tử Phóng xem ra có phần chán nản. “Chúng ta đều đã tra cứu chương trình tìm kiếm Bách Độ, chương trình Google và các mục các kho dữ liệu liên quan đến y học, nhưng không tìm thấy Đậu Hoán Chi”
Thư Lượng nói: “Nhưng dù ông ta còn sống, thì em cũng đã chuyển nghề rồi”. Anh thuật lại câu chuyện do bà Đỗ Dung kể rồi nói: “Tôi đã phân tích tỷ mỷ, nhận ra mấy điều thế này: một là, ông Đậu Hoán Chi vốn là người Thôn quái dị, nhưng tư tưởng và hành động đều khác với dân thôn đó, hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của ông già mặc áo mưa. Tôi còn nhớ Tư Dao kể cô ấy đã gặp một thanh niên ở Thôn quái dị, nói là ông già đó có quan hệ sâu xa với thôn ấy nhưng lại rất khác với những người dân bình thường. Đậu Hoán Chi chính là nhân vật như thế. Hai là ông ta có cá tính rất rõ rệt, có tình yêu mãnh liệt. Ba là, một con người như thế rất dễ có oán hận sâu sắc, dễ trở nên cực đoan. Bốn là, chắc ông ta rất hận Đỗ Nhược, cho rằng nếu bà ấy không làm cho ông ta bị phân tâm, chưa biết chừng ông đã đủ thời gian nghiên cứu ra thuốc đặc trị “đau thương đến chết”. Tóm lại, rất đáng ngờ Đậu Hoán Chi chính là ông già mặc áo mưa.
Chương Vân Côn nói: “Ý anh là sau cú sốc kia, ông ta suy sụp tinh thần, rồi sau nhiều năm bèn quay lại trả thù! Nếu thế thì tại sao không sớm ra tay nhằm ngay vào đối tượng mà ông ta căm ghét – tức là cha mẹ của Tư Dao, mà phải chờ sau khi họ chết mới nhằm vào Tư Dao?”
Thư Lượng nói: “Tôi không rõ, tôi chỉ đoán thế thôi. Nếu đúng là ông ta, thì ông ta phải biết cha mẹ Tư Dao sẽ đau đớn nhất, dù chết cũng không yên tâm – là cô con gái yêu quý của họ gặp bất hạnh. Tôi cho rằng ông ta đã theo dõi Tư Dao, nắm vững các tình hình cụ thể, sau đó gửi thư điện tử cho cô ấy và các bạn, dụ họ đi vào hang quan tài treo.
“Trong hang đó, ông ta đã bố trí virus và côn trùng hút máu, du khách đã vào đó đều không thể thoát. Loại virus đó rất đặc biệt, có thời gian ngủ yên tương đối dài, và còn tùy vào thể lực của từng người nữa. Khi nó phát tác, thì cơ tim bị tổn thương rất nhanh, cuối cùng sẽ đột tử vì chứng rối loạn nhịp tim”.
“Vậy tiếp theo đây chúng ta nên làm gì?” Tử Phóng có phần hoang mang.
“Vì hiện giờ chưa có được nhiều đầu mối, nên rất khó tra cứu về người ấy; nhưng tôi cảm giác chẳng bao lâu nữa sẽ có thêm tin tức về ông ta… Tôi ngờ rằng ông Hoán Chi và bà Đỗ Dung – chị gái của bà mẹ Tư Dao – vẫn còn chút liên hệ, bởi vì ngày trước bà Dung tỏ ra rất thông cảm với ông Chi, cho rằng cô em gái mình đã làm những chuyện đáng hổ thẹn và ích kỷ. Bởi vậy Hoán Chi sẽ không hại bà Dung, trái lại, sẽ kính trọng bà.Chắc hai anh còn nhớ cái vụ hút chết khi bọn Đắc Quảng chiếm khu nhà, bà Dung nói mình nhận được một cú điện thoại nặc danh… Người lạ nào có thể biết số điện của bà Dung? Tất nhiên là người mặc áo mưa – ông Đậu Hoán Chi! Rất có thể ông ta đã bỏ nhiều thời gian để quan sát từng hành động của Tư Dao, nên mới nhiều lần kịp thời ra tay cứu cô thoát hiểm”
“Nhưng vấn đề là nếu ông ta rắp tâm giết hại Tư Dao thì những lần Đắc Quảng sắp hại được Tư Dao, tại sao ông ta còn bí mật ra tay cứu cô?” Vân Côn hỏi.
Tử Phóng nói luôn: “Vấn đề này chúng ta cũng đã phân tích từ lâu: vì ông ta muốn hưởng thụ cái khoái cảm tự tay giết hại Tư Dao!”
“Đó cũng là một khả năng. Còn một khả năng nữa: có lẽ chính ông ta cũng tự mâu thuẫn, hiểu rõ mình làm thế là sai, nhưng vẫn không đổi ý, vẫn quyết làm bằng được; đồng thời, từ trong tiềm thức ông ta cũng mong tất cả sẽ được hóa giải. Tôi cho rằng điều này sẽ giải thích: tại sao khi các du khách sắp tìm ra hang quan tài, thì người mặc áo mưa lại khuyên họ hãy quay về; kể cả khi soạn bức thư điện tử, ghi chú rõ các điểm thắng cảnh trên bản đồ nhưng lại cố ý ghi nhầm vị trí của hang quan tài. Thực ra cũng là vì ông ta thực chất vẫn không muốn mọi người sẽ tìm thấy cái hang đó”. Du Thư Lượng vừa nói vừa thầm cảm khái: chẳng rõ có đúng là các hành vi của Đậu Hoán Chi hay không, nhưng nếu năm xưa ông ta được bác sỹ tâm lý trợ giúp đến nơi, thì có lẽ cuộc đời ông ấy đã sáng sủa hơn rất nhiều.
Cuộc điện thoại ba bên kết thúc, Tử Phóng lại lên mạng. Anh ngồi nghệt ra trước màn hình. Mình có thể lục tìm thế nào nữa đây? Hai con mọt Ts và Điền Xuyên còn bó tay nữa là! Cũng đã tra cứu tư liệu về núi Vũ Di, các đồng nghiệp báo giới ở đó cũng đã tận tâm, còn lại chỉ là mình đích thân đến đó.
“Anh Tử Phóng sướng thật đấy!” Một đồng nghiệp bước lại khẽ nói.
“Chú mày lại còn trêu tức đại ca này hả? Chỉ vớ vẩn!” Tử Phóng lừ mắt, nhưng anh nhận ra ngay ông bạn có ý nói gì. Lịch Thu mặc chiếc áo gió màu đen, được cô thư ký chỉ dẫn, đang bước đến gần bàn làm việc của anh, khiến bao người phải trầm trồ nhớn nhác.
“Ôi, cơn gió nào…album ảnh à?” Tử Phóng nhìn thấy mấy quyển album trên tay Lịch Thu.
“Chẳng phải anh đang cần nó à?” Cô đẩy chúng đến trước mặt Tử Phóng. “Hãy tạ ơn bà mẹ tôi đi! Mẹ tôi đã gửi chuyển phát nhanh đến đây”.
“Vâng, cảm ơn, cảm ơn”. Tử Phóng vội lật giở, để tìm ảnh chụp chung của ông Lý Bá Thụy và Viên Thuyên. “Cô thông cảm nhé vì đây là nút thắt cuối cùng liên quan đến tập đoàn Đắc Quảng – cũng tức là, tại sao Viên Thuyên lại biết những bí mật kia?”
“Bí mật của Đắc Quảng thực chất là gì? Ông nhà báo tầm cỡ có tin tức gì mới không, sao lâu nay không tổ chức cuộc họp?”
“Gần đây anh quá bận về Dạ hội mùa Xuân, em xem, anh không về nhà được nữa… Đúng là quên béng, cả nhà chúng ta đi vắng, chỉ còn em “phòng không, một mình một bóng”…”
Lịch Thu cảm thấy những ánh mắt chĩ về mình càng nhiều hơn, cô phát cáu: “Này, ông Tử Phóng…”
“Thôi được, thôi được. Tại tôi nói năng bỗ bã…” Anh hạ thấp giọng. “Sở công an giữ bí mật khiếp quá. Vụ việc liên quan đến phạm vi rộng hơn chúng ta tưởng tượng. Theo tin tôi được biết đến giờ, thì chiếc chìa khóa mà Tư Dao tìm thấy đúng là chìa khóa mở két bảo hiểm đặt trong Ngân hàng Thụy Sỹ, công an đã bố trí người đi lấy. Bên trong chứa rất nhiều tài liệu liên quan đến chứng cứ phạm tội của tập đoàn Đắc Quảng. Nghe nói có cả băng hình, băng ghi âm, có cả sổ sách tài vụ… có thể đó là những tài liệu bị thiếu, đặt trong “mật thất”. Có khả năng một số quan tham cũng dính vào vụ này, vì thế họ cần điều tra sâu hơn, trước mắt cần bảo mật đã. Tôi tin rằng chỉ ít lâu nữa họ sẽ cho điều tra lại vụ việc của cô em gái cô và gia đình bà chị cô. Đến lúc đó, trong nội bộ Đắc Quảng chắc sẽ có vị “tuấn kiệt thức thời” (1) đứng ra khai báo sự thật”.
Tử Phóng vừa nói vừa giở các tấm ảnh, giở nhanh như máy. Lịch Thu thấy chối quá: “Này, từ từ thôi được không? Kẻo hỏng hết bây giờ!”
“Bệnh nghề nghiệp mà! Có biết một phóng viên siêu hạng như tôi mỗi ngày phải đọc bao nhiêu thứ không? Nếu cứ tỉ mẩn gọt giũa thì còn làm nổi việc gì nữa?” Anh giở vèo vèo, xong cả ba tập album, nghĩ ngợi giây lát rồi nói: “Trường của cô đã nghỉ hè chưa? nếu rỗi rãi thì cô đi với tôi vào thăm Dao Dao. Tôi đã gặp Viên Thuyên hai lần, nhưng bây giờ chỉ nhớ thấp thoáng, e nhận không ra, nhưng Dao Dao thì phải nhận ra”.
Lâm Nhuận vừa ra về, khuôn mặt Tư Dao vẫn còn đọng lại nụ cười ngọt ngào. Thấy Tử Phóng và Lịch Thu bước vào, cô tươi cười đứng dậy: “Ôi quý hóa quá, đang giờ đi làm mà anh chị lại đến thăm tôi”.
Lịch Thu nói: “Trường bọn tôi bắt đầu nghỉ hè từ hôm nay, từ giờ tôi có thể thường xuyên vào thăm cô được rồi”.
Tư Dao than thở: “Ở trong này buồn ơi là buồn, cảm thấy mình đã rất khỏe rồi nhưng bác sỹ Tạ Tốn cứ không cho ra viện. Anh và chị như người nhà, hãy xin giúp tôi với?”
Tử Phóng biết, trong một thời gian ngắn Tư Dao chưa thể ra viện, nhất là khi chưa tìm thấy ông Đậu Hoán Chi. Anh nói: “Em nên nhớ, anh là người nhà trực hệ, còn Lịch Thu nhiều nhất cũng chỉ là chi nhánh mà thôi. Hôm nay bọn tôi có việc phân công em đây: em hãy xem mấy tập ảnh này, có ảnh Viên Thuyên không? Nếu có, tức là sẽ có ngay đáp án – chắc chắn ông Lý Bá Thụy khi còn sống đã cho Viên Thuyên biết bí mật”
Tư Dao ngồi xuống giở xem từng tấm ảnh, khác hẳn với cách xem của Tử Phóng. Lịch Thu lặng lẽ nhìn cô. một cô gái đáng mến, và mạnh mẽ nhường này, sự sống lại sắp xa rời cô, thì thật bất công. Giống như em gái mình… Mắt cô rơm rớm…Cũng may, cô đang đeo kính râm.
“Đúng rồi”. Tư Dao kêu lên.
Tử Phóng đắc ý nói: “Tôi đã bảo mà, Viên Thuyên nhất định quen ông Lý Bá Thụy”
“Không phải Viên Thuyên, mà là ông ta – ông ta quen ông Thụy”
Lịch Thu và Tử Phóng nhìn vào, thấy một tấm ảnh hơi lạ: hai người đàn ông ngồi trên chiếc ghế dài như kiểu ghế ở công viên, một người là Lý Bá Thụy, còn ngườ kia có khuôn mặt đầy các vết nhăn ngang dọc với bộ râu nhuốm bạc.
Tuy mới chỉ nhìn thấy một phần khuôn mặt, còn phần nhiều chỉ nhìn thấy bóng ông ta thấp thoáng, nhưng Tư Dao vẫn nhận ra: người ngồi bên cạnh Lý Bá Thụy chính là ông già mặc áo mưa.
****************
Chú thích:
(1) Nói theo ý của câu châm ngôn “Người thức thời, ấy là bậc tuấn kiệt.”