Đau thương đến chết- Phần 1: Vạn Kiếp - Chương 7 - Bỏ lỡ Niết bàn
Trên tảng đá cao cách bọn họ hơn chục mét là một tượng người đang ngồi bất động! Nói đúng ra là một pho tượng. Bởi vì người đó ngồi quá lặng im, nên người tinh tế nhất nhóm là Viên Thuyên cũng phải căng mắt mới nhận ra được.
Người ấy mặc một chiếc áo mưa sẫm màu, điều làm cho mọi người ngạc nhiên hơn là trong lúc trời nắng thế này ông ta vẫn sùm sụp chiếc mũ áo mưa chóp nhọn trên đầu, khiến không ai nhìn rõ mặt.
Mọi người đưa mắt nhìn nhau, già nửa ngày trời mới gặp một người lạ, lại ăn mặc như thế, ai cũng thấy sửng sốt. Kiều Kiều bất giác lùi về sau mấy bước, nắm chặt tay Lâm Mang.
Bỗng Viên Thuyên kéo Tiểu Mạn, bảo: “Đi với mình!” Dục Chu cũng bước nhanh lên theo, ba người đến sau lưng người mặc áo mưa, Viên Thuyên hỏi to: “Phiền ông có thể chỉ đường giúp không?”
Người ấy không ngoái lại, dường như lẩm bẩm gì đó.
Viên Thuyên nghe chưa rõ, hỏi lại: “Ông có thể nói to hơn một chút được không ạ?”
Người đó đột nhiên gầm lên, giọng vang như sấm: “Quay lại đi!”
“Gì ạ?” Viên Thuyên không dám tin sẽ nhận được câu trả lời như thế này.
Cuối cùng người đó quay nửa người về phía Viên Thuyên, cả khuôn mặt vẫn bị khuất sau chiếc mũ áo mưa, chỉ có thể cảm giác đây là một ông già. Ông ta nói chậm rãi, giọng khàn khàn cực kỳ già nua, khiến người nghe có cảm giác như tim mình đang bị chà xát.
“Lẽ nào ta nói chưa đủ to hay sao? Quay lại!”
“Tại sao ạ? ” Tiểu Mạn hình như cũng thấy sợ ông già, cô nắm lấy tay Viên Thuyên.
“Biết đây là chỗ nào không? ” Ông ta hỏi.
“Vách Niết Bàn à”. Viên Thuyên vẫn không nao núng, nhìn chằm chằm vào mắt ông già.
“Biết thế nào là “Niết Bàn” không? “
Viên Thuyên cười nhạt, rồi nói: “Cháu biết ông cho rằng bọn cháu đều không hiểu văn hoá, nhưng ít ra cháu cũng biết đại khái Niết Bàn có nghĩa là tái sinh. Hiểu được nó, là rất quan trọng hay sao? “
Ông già cười nhạt: “Bây giờ các người quay lại, chính là từ chỗ chết mà được sống lại, đến lượt cô nói xem có quan trọng hay không?”
Cả bọn đều hít sâu một hơi khí lạnh. Ông ta đang nói gì thế nhỉ?
“Kỳ lạ thật, ông còn chưa biết chúng cháu muốn đi đâu, sao có thể nói đến sống chết gì vậy? ” Viên Thuyên vẫn chưa chịu thôi.
“Trên núi này, thứ hấp dẫn mọi người và cũng khó tìm nhất là hang quan tai. Ta sống núi này đã nhiều năm, bị người ta hỏi nhiều nhất là hang quan tài, ta nghĩ các người cũng không ngoại lệ”
“Ông nói đến hang Thập Tịch phải không? Lẽ nào đã từng có nhiều người đi tìm rồi? ” Lúc này Tư Dao đã hết sợ đi lên mấy bước hỏi.
“Hang Thập Tịch? Các người nghe ở đâu ra cái tên thanh nhã thế? Người đến tìm nó cũng không nhiều, năm nay, các người là tốp đầu tiên.” Ông già quay đi lại ngồi đối diện với thung lũng sâu.
“Hang đó đã thu hút nhiều người như thế, tại sao không có người đến xem? Rất gần điểm du lịch chính thức ở núi Vũ Di, tại sao vẫn chưa được khai thác?” Viên Thuyên rõ ràng đã nghĩ ngợi xa hơn.
“Vì rất ít người biết đến thung lũng này, rất ít người biết đến hang đó.”
“Vậy tại sao những người đã từng vào cái lại không quảng bá về một nơi đẹp thế này?”
“Vì những người đã từng vào hang đó, không còn ai sống sót.” Ông ta nói rất bình thản, như thuật lại một sự thật hết sức bình thường.
Cả bọn kinh hãi, gió thổi tới, ai cũng cảm thấy lành lạnh.
“Ông là ai? Xin lỗi phải hỏi câu này, vì cháu thấy ông nói tiếng phổ thông rất chuẩn, không giống dân địa phương sống lâu năm trong thung lũng sâu này.” Viên Thuyên nói: Cả bọn đều thầm khen cô thật sắc sảo, rất biết quan sát và suy nghĩ thấu đáo.
“Từ nhỏ đã xa quê, đến già ta mới về. Ta sinh ra ở đây, thời thanh niên phiêu bạt bên ngoài, sau khi nghỉ hưu lại về đây. Ta biết câu hỏi của cô thật ra là “sao có thể tin lời ông nói? ” Ta không ép cô phải tin bất cứ kết luận nào, nhưng ta cũng không cần thiết phải nói dối. Doạ các người sợ, ta có được lợi gì đâu! Những người đã từng vào hang quan tài, cuối cùng đều đã chết, vấn đề chỉ là sớm hay muộn mà thôi. Trong thôn nơi ta sống, từ xa xưa người ta đã kháo nhau như vậy. Ta cũng từng chứng kiến người quen trong thôn sau khi vào hang trở về đều chết mà chẳng rõ tại sao.”
“Đã chết như thế nào ạ? “
“Đau thương đến chết.” Ông ta nhấn vào từng chữ.
“Gì ạ?!”
“Lần đầu tiên ta nghe được bốn chữ này từ miệng một thầy giáo tiểu học trong thôn. Hơn chục năm trước, ông ấy là một thanh niên từ nơi khác đến, không tin chuyện ma quái, không nghe dân thôn khuyên nhủ, cứ đi vào động quan tài, một tháng sau thì chết. Bác sĩ trên huyện nói phủ tạng ông ta bị suy kiệt. Trước lúc chết hai mắt ông ta nhìn trừng trừng cứ như là gặp ma giữa ban ngày rồi thốt ra bốn chữ “Đau thương đến chết”. Sau khi ta nghỉ hưu, suốt ngày đi khắp vùng núi này, mới biết bốn chữ ấy quả là rất không bình thường.
“Rất không bình thường như thế nào ạ?” Viên Thuyên truy hỏi.
“Rốt cuộc các người có quay lại không?” Ông già hỏi lại một cách hăm doạ.
“Chuyện ông kể hình như quá ư ly kỳ”. Tư Dao nói. “Nhưng lại khiến cháu cảm thấy hang quan tài càng bí hiểm hơn”.
“Ta phải nói thế nào nữa thì các người mới quay lại?” Ông già xoay người lại như là sắp gầm lên, nhưng lập tức nói ôn hoà: “Ta sẽ không cho các người biết đường vào hang quan tài. Nếu hôm nay các người nhất định muốn đi, tốt nhất là hãy bảo với người thân, bạn bè, chuẩn bị trong vòng nửa năm, thu xếp hậu sự; bởi vì cuối cùng các người sẽ phải… đau thương đến chết”.
Nói xong ông già đứng lên, vóc người cao gầy nhưng lưng vẫn còn thẳng. Ông ta đi luôn xuống núi, Tư Dao bỗng gọi với theo: “Ông ơi, đợi đã!”
Ông già dừng bước nhưng không quay đầu lại: “Ta biết cô là người không tin ta nhất, ta không tin cô sẽ thay đổi ý định”.
“Cháu chỉ muốn hỏi ông, hiện giờ mặt trời đang rực rỡ, sao ông lại mặc áo mưa?”
“Dù bây giờ trời đang nắng, nhưng buổi tối không thể có mưa hay sao?”
“Cảm ơn ông, ông đi nhé!” Tư Dao cười cười.
Đợi ông già đi xa, Kiều Kiều kêu lên: “Chẳng cần biết ông ấy nói là thật hay không, mình cũng không đi vào chỗ chết đâu!”
Tư Dao bật cười: “Điều ông ta nói đương nhiên không thể là thật, ai lại tin những lời hão huyền ấy? Huống hồ, mình đã nhận ra là ông ta nói dối: sáng nay dự báo thời tiết thông báo rõ ràng trời sẽ nắng trong hai ngày, thế mà ông ta lại nói “lẽ nào buổi tối không thể có mưa”. Chẳng qua là ông ấy cố ý nói cho có vẻ bí hiểm mà thôi!”
Tiểu Mạn nói: “Với mình thì đi hay không cũng chẳng sao, vả lại cũng rất khó tìm cái hang ấy. Hơn nữa nếu tìm ra, rồi tối mịt mới về thì gay go!”
Viên Thuyên “hứ” một tiếng, nói: “Cậu cứ nói thẳng ra là cậu quá sợ rồi! Còn cậu Thường Uyển, liệu có phải “đánh trống thu quân” không?”
“Đừng kéo mình vào cuộc nữa, mình mệt rồi, rất muốn về Trung tâm lữ hành tắm gội, thế thì có gì là sai?”
Tư Dao bảo: “Đã đến tận đây rồi thì cố tìm xem sao, trước khi trời tối nếu vẫn chưa tìm thấy thì chúng ta quay về, được không? Nghe ông ta nói như vậy, mình lại càng thấy hứng thú. Anh Dục Chu, anh Lâm Mang nghĩ sao?”
Dục Chu nhìn Viên Thuyên, cười: “Bà chủ gia đình chúng ta đang ở đây, tôi chỉ làm theo mệnh lệnh thôi”.
Lâm Mang nói: “Anh không cho rằng lời ông ta nói là thật, em biết đấy, anh chỉ tin những thứ mắt anh nhìn thấy, còn những thuyết đại loại như cầm tinh con gì, thuộc chùm sao nào, nhóm máu gì… anh đều không bận tâm”.
Tiểu Mạn vốn rất tin những thuyết này nên cô “xuỳ” một tiếng.
Kiều Kiều thì tỏ ra ngán ngẩm, lừ mắt nhìn Lâm Mang. Tư Dao cười nói: “Thôi nào, Kiều Kiều cứ đi với mình, đến đó mình sẽ vào hang; như Viên Thuyên nói, cậu có thể đứng ngoài mà ngắm cảnh, chỉ cần không bị khỉ bắt về làm vợ là được!”
Tiểu Mạn vừa tức vừa buồn cười: “Này, Tư Dao trông cũng ẻo lả như Kiều Kiều, mà lại to gan nhỉ?”
Tư Dao nói: “Thế thì chỉ có thể trách mẹ tôi thôi, bà ấy cũng ẻo lả nhưng lại to gan, việc gì cũng dám làm. Tiếc rằng mẹ mình không còn nữa, nếu không, bà cũng xông xáo đi xem hang quan tài ngay!”
“Vậy cứ quyết định thế đi, chúng ta tìm thêm một hồi nữa, để xem xem ai sẽ đau thương đến đâu, có thể chết vì đau thương không?” Viên Thuyên quyết định. Tính cô vẫn hay nói năng thẳng thắn và cô rất bức xúc với cái câu “Đau thương đến chết”.
Tiểu Mạn lại chăm chú xem bản đồ một hồi, rồi nói: “Hết cách rồi, đành đi liều vậy, đi về hướng đông, hướng mà ông già đó vừa xuống núi”.
Bảy người lại đi tiếp khoảng nửa tiếng, nhìn thấy nhiều cảnh rất đẹp và lạ mắt, nhưng vẫn chưa thấy cái hang nào. Tư Dao luôn im lặng trên đường lúc này bỗng nói: “Mình càng nghĩ càng cảm thấy nếu cứ đi thế này, chắc chắn không tìm được cái hang đó. Chúng ta nên quay về vách Niết Bàn, chỗ vừa nãy gặp ông già kỳ lạ đó, tìm kỹ ở xung quanh xem sao vì tấm bản đồ hày hầu như không có gì nhầm lẫn, tại sao lại không tin chắc vào nó? Nếu không tìm được chúng ta sẽ quay về”.
Viên Thuyên gật đầu: “May quá, mình cũng đang nghĩ thế”.
Tư Dao cười: “Bạn tri âm có khác, nói một chút đã hiểu!”
Tiểu Mạn và Kiều Kiều dù không vừa ý nhưng phải phục tùng đa số, cả bọn lại quay về vách Niết Bàn.
Bảy người tìm kỹ xung quanh, thậm chí nằm nhoài ra mép vách đá nhìn xuống dưới, mà vẫn không tìm thấy hang quan tài.
Viên Thuyên bỗng kêu lên: “Mọi người nhìn kìa!”
Tất cả xúm lại, thấy Viên Thuyên chỉ vách núi trước mặt.
“Gì cơ? Bọn mình chẳng nhìn thấy gì cả!” Thường Uyển hỏi.
“Đau thương đến chết”. Viên Thuyên dường như đang cố gắng kìm nén nỗi kinh hoàng.
“Đâu có gì? Chúng ta đã tìm thấy hang quan tài đó đâu?” Dục Chu cũng cảm thấy kỳ lạ.
Tư Dao “ôi” một tiếng: “Lẽ nào là như vậy? Mình hiểu ý Viên Thuyên rồi, cậu nói là những đám dây leo ở bên dưới vách núi trước mặt chứ gì?”
Viên Thuyên gật đầu: “Đúng, mọi người nhìn xem, những đám song mây đó mọc dày đặc, dường như không theo quy luật gì, nhưng nếu để ý một chút, chỗ vách núi không bị chúng che khuất, nhìn từ trên xuống, có phải có bốn chữ không?”
“Đau thương đến chết!” Tiểu Mạn suýt đánh rơi chiếc ống nhòm xuống dưới thung lũng.
Vùng nham thạch này ở núi Vũ Di là điển hình của “địa mạo Đan Hà” (1), còn chất đá ở vách núi trước mặt lại càng đỏ gắt hơn. Lúc này dưới ánh hoàng hôn, bốn chữ Hán viết theo thể Tân Nguỵ (2) nằm giữa đám song mây như được viết bằng máu tươi, nhìn thật khiếp hãi.
“Xem ra, ông già đó không hù doạ bọn mình đâu. Chưa biết chừng nó chính là thạch khắc”. Giọng Thường Uyển run run.
“Sao thế Thường Uyển? Chỉ thế mà đã sợ rồi à? Trời đã tối đâu!” Tư Dao cũng rất kinh ngạc, trở nên cảnh giác nhưng lòng hiếu kỳ còn lớn hơn, vì cô cảm nhận rõ hình như cô đã thấy cảnh này ở đâu rồi, dù quang cảnh trước mắt có màu đỏ son kỳ lạ và rất đặc biệt.
Mình nhìn thấy ở đâu nhỉ? Tư Dao cảm giác như trong ký ức của mình có một khoảng trống.
Kiều Kiều thì gần như khẩn cầu: “Về thôi, ông già ấy không lừa bọn mình đâu. Mình không muốn bị đau thương đến chết!”
Tư Dao chỉ ráng chiều ở chân trời: “Vậy lý do gì mà ông ta mặc áo mưa? Cũng rất đúng sao? Những câu nói vớ vẩn vô lý ấy, là thứ thông tin vỉa hè thứ thiệt!”
“Kìa, Dao Dao, sao cậu lại ương gàn thế nhỉ?” Kiều Kiều mặt sa sầm tỏ ra rất bực tức.
Lâm Mang nói với vẻ hả hê khoái trá: “Cô ấy vốn vẫn thế, chẳng lẽ em không biết à?” Kiều Kiều tức tối nghiến răng.
“Bởi vì… mình nhận ra hình như mình đã từng thấy cảnh này ở đâu đó rồi, quả là rất kỳ lạ”. Tư Dao không biết lý do này có đủ sức thuyết phục không.
Tiểu Mạn nói: “Bây giờ vấn đề quan trọng nhất là trời sắp tối rồi, chúng ta vẫn chưa thấy bóng dáng hang quan tài, chẳng lẽ cứ tìm kiểu vu vơ thế này à?”
Khi mấy người đang tranh luận, Viên Thuyên đứng bên một tảng đá cao, hết nhìn xuống dưới lại nhìn ra xa. Cô bỗng khẽ kêu lên, chỉ vào vách núi trước mặt: “Nói thật, mình cũng không mấy ủng hộ việc tiếp tục đi cho đến tối; nhưng mình cảm thấy chúng ta có thể sẽ lập tức tìm thấy cái hang đó. Các cậu nhìn về phía kia, nhìn vách núi kia, có nhận ra điều gì không? Có gì khác thường không?”
Vách núi trước mặt đang tắm trong ánh chiều tà đỏ rực.
Tư Dao cũng kêu lên: “Đau thương đến chết!”
Thường Uyển hoảng sợ hỏi: “Cậu nói gì?”
Tiểu Mạn gật đầu: “Mình cũng nhận ra rồi, nhìn mà xem, giữa vách núi trước mặt, có vài mảng đá đỏ khác thường nhô ra, bị ánh dương chiếu vào, đỏ như màu máu, nếu nhìn liên hoàn một mạch, các mảng đá đỏ sẫm này sẽ mờ mờ tạo thành bốn chữ – “Đau thương đến chết”. Khớp lại thì được bốn chữ này, không thể nói là thư pháp gì nhưng cũng thật là kỳ lạ!”
Nghe Tiểu Mạn nói, mọi người cũng đều nhìn thấy rõ. Ai cũng lặng yên suy nghĩ xem tất cả những thứ này nghĩa là gì.
“Mình nghĩ, đây chẳng qua là cảnh quan nhân tạo thôi, làm gì có ai đó đau đớn đến nỗi muốn chết, đã làm ra trò này”. Tư Dao cũng thấy hơi thấp thỏm. “Nhưng sao lại nói là có thể lập tức tìm thấy hang Thập Tịch?”
Viên Thuyên chỉ xuống dưới thung lũng nói: “Các cậu nhìn kỹ mà xem, nhìn tổng thế mấy chữ này đều bề thế rất thoáng, duy chỉ có chữ “chết”, các nét ngang, phảy, móc câu ở bên phải dường như chen sát nhau, chỉ về một hướng ở vách núi. Chính ở chỗ kia… đứng đây có thể thấy thấp thoáng phía trên của khe Ngấn Sa. Mình nghĩ, hình như rất có lý đấy: hồi trước mình đã xem ảnh chuyên đề, quan tài treo ở vùng núi Vũ Di này chủ yếu là quan tài hình thuyền, và đều đặt gần nước, hình như có nghĩa là thuyền chở thi thể, theo dòng nước trôi đến Thiên quốc (3), cho nên rất có khả năng nơi ấy chính là vị trí của hang quan tài.”
Tiểu Mạn hỏi: “Vậy rốt cuộc cậu có ý gì?”
Viên Thuyên đáp: “Mình còn phải tra xét them đã. Nào, ai vẫn muốn đi xem hang quan tài?”
Tư Dao giơ tay không chút do dự, Lâm Mang hơi ngần ngừ rồi cũng giơ tay, Kiều Kiều cố gắng kéo tay anh ta xuống nhưng không ăn thua. Dục Chu nhìn Viên Thuyên, sẵn sàng tỏ ra nhất trí cao độ với người vợ chưa cưới.
“Dao Dao thật sự hứng thú chứ?” Viên Thuyên lại hỏi một lần nữa.
Tư Dao gật đầu, bỗng Lâm Mang nói: “Vẫn còn một cách, nếu các cô đều không muốn đi, thì đừng nên tự ép mình; tôi có thể đi với Dao Dao, bây giờ mấy người cứ về trước đi, có lẽ sẽ xuống đến chân núi trước khi trời tối đấy”.
Kiều Kiều kêu lên: “Anh đừng đùa thế được không?”
Lâm Mang thản nhiên nói: “Anh là người lớn, anh chịu trách nhiệm về hành vi của mình”.
Kiều Kiều bắt đầu rơm rớm nước mắt.
Tiểu Mạn tặc tặc lưỡi châm biếm. Lòng Tư Dao lại chùng xuống: sao Tiểu Mạn cứ nhìn mình không rời mắt thế?
Viên Thuyên chau mày, thở dài: “Thế này vậy, chúng ta cứ thử lần cuối xem suy đoán của mình ra sao, nếu không thấy thì thôi, sẽ xuống núi ngay; còn nếu thấy thì vào xem, chứ mình kiên quyết không tán thành hành động riêng rẽ”.
Tiểu Mạn cười nhạt: “Viên Thuyên chỉ toàn hỗ trợ Dao Dao”.
Viên Thuyên quay lại nói: “Vì mình cũng giống cậu ấy, rất tò mò!”
Chú thích
(1) Danxia Landform.
(2) Thịnh hành vào thời Nguỵ, thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên.
(3) Miền đất lý tưởng, theo tưởng tượng.