Đạo sĩ tản mạn kì 10 Năm Sau ( END ) - Chương 13
Chuyện thứ mười ba: Chạm trán
Lòng vẫn mãi băn khoăn về câu hỏi tại sao chiếc lắc của vợ tôi lại rơi đúng lúc, đúng chỗ như thế. Nhưng tôi gác lại tất cả, biết đâu đấy là do có kẻ lợi dụng ăn cắp để đổ tội, khiến chúng tôi loạn từ trong loạn ra. Bất kể là gì thì tôi cũng mặc kệ, tôi tin vợ tôi không phải là kẻ như vậy.
Suốt hai tuần sau, mọi chuyện vẫn im lìm, không có gì đặc biệt xảy ra. Thằng D đã tỉnh, Ngọc Anh cũng bình thường trở lại, mọi chuyện trôi qua chóng vánh, ngỡ như vừa bừng tỉnh cơn mơ. Nhằm đúng ngày mùng một, chờ đến lúc tối đen thì cùng ông Bách lên đàn làm phép. Hai người ngậm một búng rượu, phun vào mấy tấm thẻ gỗ, rồi sau lại úp một tấm kính bát quái lên trên nắp hộp đựng thẻ, chờ lúc trăng mờ thì rọi thẳng lên trăng, thu ánh trăng mờ vào. Làm xong, hai ông chau lấy thẻ ra, xâu chuỗi đưa cho hai vợ chồng tôi, thằng D, cô giúp việc mỗi người một tấm đeo lên cổ. Lại dặn là khi nào cảm thấy xung quanh có khí âm lạnh lẽo thì ngậm lên miệng, tự khắc sẽ nhìn rõ chỗ đâu chạy được đâu không.
Tấm thẻ gỗ này tôi và thằng D đã quá quen, hai thằng to đầu rồi mà giờ nhìn nhau chẳng thằng nào dám ngậm thử lên cả. Chợt tôi thấy vợ tôi đưa tấm thẻ lên ngang miệng, tôi vội đưa tay cản lại, lấy cớ là nhìn nhiều thì mất thiêng, chứ không thì với người sợ đủ thứ như em chắc không sống nổi khi nhìn những cảnh tôi đã “may mắn” chứng kiến hồi trước. Chiều hôm đó, tôi theo thằng D vào rừng, cầm theo cả cưa xích, dao rừng. Khổ nỗi cứ đang cưa một lúc thì thằng D lại ngoái đầu ra sau nhìn cảnh giác, quan sát bốn phía rồi lại cắm đầu cắm cổ cưa tiếp, vừa cưa vừa cố nói chuyện thật rôm rả với tôi. Thế quái nào mà lúc mình vừa đi chỗ khác giải quyết bức xúc thì tự nhiên nghe giọng nó í ới loạn lên, vội vàng cắm đầu cắm cổ chạy ra chỗ cây đang cưa, tý nữa thì mình kéo khóa chẹt vào…. Ra đến nơi thì chỉ muốn thoi vào mặt nó, hóa ra ông tướng cứ vừa cưa cừa lảm nhảm nói chuyện, quay lại không thấy mình đâu nên hãi quá gọi ầm lên.
Cưa được gần mười lăm phút thì phạt hết các cành lá thừa thãi, chỉ để lại đúng một gốc hồng bì. Chặt xong nó gọi điện cho người ở xưởng mộc của bác nó kéo cây gỗ về, Cứ tưởng là về ngay, nào ngờ nó còn kéo tôi đi tuốt lên dãy núi sao, chặt mấy cây luồng to tướng về, mãi đến tối mịt nó mới chọn xong cây nào để chặt, chặt xong thì hai thằng tự vác về. Thằng D đi trước, ghé vai một tay ôm hai cây luồng, một tay xách đèn đêm, cái cưa thì nó đeo vào bao sau lưng. Cứ thế nó một tay ôm cây trên vai, một tay thong dong xách đèn đi xuống núi, mình đi sau vác đỡ cho nó mà cứ nhẹ như không, nhưng mệt mỗi cái là nó cao hơn mình, vừa đi phải vừa rướn người lên, mà thằng nay đột biến nên không biết mệt là gì, cứ vác đi băng băng không nghỉ, lúc tôi theo nó về đến sân thì cũng mệt nhoài người ra.
Sáng hôm sau, thằng Việt sang nhà ông bác, cùng hai thợ phụ xẻ cây gỗ hôm qua, chọn một khúc lõi, cưa bào nhẵn mịn, khía rãnh làm thân nỏ, Còn phần gỗ thừa còn lại thì nó cho đẽo gọt làm mũi tên hết, lại bịt cả sắt móc ngược vào làm mũi. Xong nó lại về lấy hai cây luồng ra, đem làm cánh nỏ, đẽo gọt, phơi phóng, bện dây, dán cánh tên chừng ba bốn ngày sau thì hoàn thành. Làm xong nó đưa cho tôi, bảo:
– Bây giờ dùng tầm xa cho nó lợi, một phát là xong, gọn nhẹ, đỡ tốn sức lực. Cái nỏ này tao chế tạo không theo kiểu của mình mà dùng cách thời Trung Cổ, lại thiết kế đường cung, mũi tên, đàn hồi dây theo ý tao sao chỏ phát huy lực mạnh nhất, hao phí công ít nhất. Bây giờ tao dạy mày bắn, dùng cái này kết hợp với vũ khí cận chiến là hợp.
Liền một tuần sau đó, thằng D dạy tôi cách ngắm bắn, cách tính toán đường đi, hướng gió, tốc độ di chuyển của mục tiêu. Nó nói:
– Để hạ gục đối thủ từ xa thì hai mũi tên là quá nhiều. Ưu điểm của cung nỏ là lợi thế tầm xa, bất ngờ, sát thương cao. Nếu mất đi một trong các lợi thế đó thì mày chỉ còn nắm 50% cơ hội, chưa kể là với mỗi lần bắn hụt mày sẽ đánh động, với kẻ thù nguy hiểm thì nó hoàn toàn có thể lao ra chỗ mày đang thay tên, dù cho mày có lắp kịp tên vào thì cũng sẽ hoảng loạn mà bắn trượt. Nhớ kỹ là chỉ một mũi tên, nếu thấy không chắc ăn thì đừng bắn. Đã bắn là phải trúng.
Dạy tôi được hai tuần thì tôi thành thạo nghề cung nỏ hơn hẳn, bắn được cả mục tiêu di động cách đó 100m. Thằng D thấy tôi bắn lên tay thì khoái chi lắm cứ cười hà hà, kêu có học trò thông minh, thầy giỏi có trò hay.
Trong lúc dạy tôi bắn nỏ thì thằng D cũng làm việc khác, nó lấy giấy A0 vẽ một bản thiết kế cây cung vô cùng tỉ mẩn chi tiết. Trong phòng nó chỉ có đúng một tờ giấy vẽ cây cung, còn lại la liệt là bản nháp, bản tính toán số đo của cánh cung sao cho bắn ra mũi tên hoàn hảo nhất. Trên cây cung của nó thiết kế cả rãnh xuyên tên, đường đục trên cánh cung để giảm bớt công kéo và tăng lực đàn hồi, lại gắn cả đèn ngắm laser, trông hoảnh tráng vô cùng. Thằng này khỏe như voi mà đầu nó thì giỏi tính toán hơn người, giờ mới thấy đúng là hồi cấp 3 nó toàn 9′ toán lý không sai tẹo nào. Rối cây cung của nó cũng hoàn thành, làm xong nhìn cây cung to như trong game, cầm nặng cả tay. Thằng Việt vừa trông thấy sản phẩm thì chắp tay vái thằng D :
– Con lạy thánh ạ! Ông tướng định kéo cái cung này kiểu gì, nặng thế này thì để làm cảnh rồi, thôi ông dùng cái nỏ nhẹ nhàng như thằng thầy cãi nửa mùa cho con.
Thằng D cười cười, khoát tay ra bộ không thèm chấp, rồi nó giơ cây cung lên, gồng tay kéo dây lắp tên, tiếng dây kéo nghe trèo trẹo. Rồi nó buông dây, chỉ nghe phụt một tiếng, mũi tên lao vút đi, xuyên thủng cả hồng tâm gỗ dày hơn mười phân. Biết là thằng này sức khỏe phi thường rồi mà ai trông thấy cũng phải trầm trồ, Ngọc Anh thì tự hào lắm mà cố nén cảm xúc lại, nhưng ánh mắt không giấu nổi nét ngưỡng mộ đức ông chồng phi phàm.
Chuẩn bị thế là xong, giờ chúng tôi có thể tự tin đi tìm bắt kẻ địch, không còn bị lâm vào thế bị động nữa. Không cần biết kẻ giấu mặt kia là ai, nhưng cứ diệt trừ hết tay chân của nó thì diệt nó chẳng khó gì. Sáng ngày hôm sau, tôi thằng D, thằng Việt cùng nhau vào trong núi, quyết diệt cho bằng được kẻ thù trên cạn, con Cùng Cục. Nhắc đến nó mới nhớ, không biết rõ mặt ngang mũi dọc nó ra làm sao thì tìm thế quái nào được. Thằng Việt lại lấy cái la bàn của nó ra, bắt quyết, điểm ấn chỉ vào mũi kim, miệng lầm rầm đọc. Vừa đọc xong thì cây kim quay tít mù rồi xoay vòng vòng như chong chóng. Thằng Việt trông thấy thế thì tặc lưỡi, cất cái la bàn đi, lấy một cây gậy tre ra, chẻ làm đôi rồi cắm một nửa xuống đất, nửa còn lại thì nó đặt ngang đầu nửa kia cho cân bằng, lấy quả trứng gà luộc ra, cầm dao khoét cắt cho nửa quả còn bằng phằng, để mặt phẳng của nửa quả trứng lên trên, rắc gạo nếp vào thành hình chóp xong cắm cây hương xuống qua trứng. Nó chỉ ngón tay xuống cây hương, miệng đọc liên hồi toàn tiếng Miên, kì lạ thay, thanh tre ngang từ từ quay như canh quạt, nửa quả trứng cắm hương ở trên bị quay tít mù mà không đổ, lạ nữa là cây hương cháy nhanh vô cùng, thoáng chốc đã lụi. Khi hương lụi hết thì thanh tre ngừng quay, qua trứng đổ thẳng về một đầu tre, thằng Việt chi tay về hướng đó, kêu cứ thằng hướng này mà đi.
Lần mò được hơn hai cây số đường núi thì bắt gặp một cái hốc ăn sâu vào vách núi, rộng ba mét, cao hai mét. Nhìn cái hốc tôi không tin là một con vật to lại chui vừa vào đây để ở được, thằng Việt suỵt tay kêu im lặng, nó đốt một cục thuốc vón cho khói mù lên rồi vứt vào trong hốc, mùi thuốc buồn nôn, lợm mửa vô cùng, tôi chỉ hít thoáng qua mà suýt ói. Được hơn hai phút sau thì trong hốc sộc đầy khói, lan ra mù mịt cả ngoài cửa, ba thằng phải đứng tránh ra xa một quãng ngồi nấp. Thằng D dùng cung kéo tay nên không dám giương sẵn, sợ sức cung mỏi thì bắn khó, còn tôi thì đặt sẵn tên, ngắm thẳng vào cửa hang, mắt chăm chú dõi vào làn khói, thằng Việt thì đã mặc đạo bào, tay nắm chặt thanh nhuyễn kiếm. Thần kinh ba thằng lúc này còn căng hơn cả dây cung. Đột nhiên, làn khói di chuyển nhanh, một cái bóng lồm cồm bò ra từ trong hốc. Tôi đập vai hai thằng, chỉ mũi nỏ về hướng cái bóng. Chờ tới lúc cái bóng đó bò hẳn ra, tôi mới nhìn rõ đó là một con vật quái dị vô cùng, nhìn nó như một con khỉ lông bạc trắng, nhưng lại có hai tay dài ngoằng, chân cao lêu nghêu còn thân mình ngắn một mẩu. Tôi đếm nhịp thở, nhằm mũi nỏ vào con vật, ước lượng theo đúng những gì thằng D chỉ, rồi kéo lẫy. Mũi tên lao vụt đi, bay thẳng vào lưng con vật, nhưng quái lạ làm sao mũi tên bịt sắt cứng thế mà đâm vào lưng con khỉ cứ như chạm phải thép, rụng luôn xuống đất. Thằng Việt đưa hai ống tên cho tôi và thằng D, bảo:
Dùng cái này mà bắn! Tao yểm rồi.
Thằng D lấy mũi tên sắt, giương căng sức cung, bắn liên tiếp hai mũ, tôi cũng bắn ba mũi, hai mũi thằng D trúng cả hai, tôi trúng một mũi. Nhưng con Cùng Cục cứ trơ như đá, tên cắm đầy người mà vẫn chẳng sao, nó gầm rú lên, lao về phía ba thằng. Thằng Việt vội lấy một viên đá xanh trong túi ném ra, con kia thấy viên đá xanh thì sợ nhảy lùi ra sau, vờn vờn không dám lại. Thằng Việt rút một cái tù và sừng trâu, đốt một đạo bùa đen rồi thả vào trong, xong nó bụm miệng thổi mạnh. Tiếng tù và vang lên u u, lửa từ trong lòng phụt ra. Con Cùng Cục kêu chí chóe rồi bỏ chạy, ba thằng đuổi theo gấp. Thằng D vừa chạy vừa lắp tên, bắn năm sáu phát mà hụt cả, tôi bắn được trúng thêm một phát. Hai thằng đuổi liền mười lăm phút, chạy đường núi mệt bở hơi tai. Đuổi mãi đến sát rìa sông thì con Cùng Cục quay đầu lại chống trả, ba thằng không dám lại gần nó, tên thì chỉ còn vài mũi, bắn mà hết thì đi đứt. Thằng Việt quay sang bảo hai thằng:
– Đả thảo kinh xà
Nghe vậy tôi và thằng D hiểu ngay, thằng D nhận dây pháo đen từ tay thằng Việt, buộc vào mũi tên rồi bắn xuống đất cạnh con kia. Thằng Việt bắt quyết, chỉ tay lên trán rồi trừng mắt nhìn vào dây pháo. Bất ngờ dây pháo nổ đùng đoàng, sáng lòe ánh đỏ. Con Cùng Cục hai quá chạy mất, thằng Việt chỉ chở có thể, rút một cuộn chỉ đỏ, đầu buộc hai thanh thẻ đồng hình lân treo với một cái lọ nhỏ, quanh lọ dán một lá bùa vàng. Nó quăng cuộn chỉ ra, quấn đầu nặng vào chân con Cùng Cục rồi nhẹ nhàng cầm sợi dây. Còn Cùng Cục cố quều quào tay gỡ ra mà không được, chạy thì bị sợi chỉ mảnh tang giữ lại. Thằng Việt cắt sợi chỉ rồi gim xuống đất, lấy lửa đốt bùa trắng châm vào đuôi sợi chỉ. Ánh lửa cháy chạy dọc sợi chỉ đỏ mà không làm đứt, con Cùng Cục kinh hãi nhìn ánh lửa, cố chạy mà không được. Nhìn con vật lâm vào đường cùng, tôi không nỡ, quay sang nhìn thằng Việt. Nó chỉ lắc đầu nói:
– Sinh thì phải diệt! Gây tội thì phải đền. Mày dần mềm yếu rồi đấy H ạ! Giờ có muốn cứu nó cũng không được, lửa cháy hết là cái lọ kia hút nó vào.
Ba thằng đứng đó nhìn, bỗng đâu sóng từ đắng sông nổi cồn lên dữ dội, rồi cái đuôi dài ngoằng thò lên, đập mạnh xuống mặt nước sát bờ. Sóng ào lên hắt ướt cả ba thằng,…và hắt tắt cả lửa. Con Cùng Cục thấy lửa vừa tắt thì rú lên rồi dễ dàng giằng đứt sợi chỉ lôi chạy đi. Thằng Việt hét to:
– Mau bắn nó!
Nói đoạn nó lấy một lọ con thuốc ra, trét vào mũi tên. Thằng D kéo đẫy cung, nhằm thật kĩ, bắn một mũi tên xuyên ngay vào lưng con Cùng Cục. Ba thằng thở phào, bỗng đâu một cái đầu thò lên bờ, há ngoác miệng định đớp gọn thằng Việt. Tôi vội túm vai thằng Việt lội giật lại, tiện tay ném cả cái nỏ vào đầu con lươn. Thằng D vội vàng giật cây thiết côn tôi đeo sau lưng, gồng toàn lực bổ thật mạnh vào đầu con lươn. Trúng cả đòn trời giáng vào đầu, con lươn rụt ngay xuống nước, bơi vèo ra xa.
Sau phát vừa rồi, thằng Việt hút chết, còn chưa kịp hoàn hồn, tái bệch. Ba thằng dìu nhau xuống núi về nhà, lòng vẫn lo ngay ngáy chuyện chưa rõ con Cùng Cục kia có chết không. Tôi và thằng Việt lại càng sợ, lúc nãy thằng D đứng ngoài sát sông nhất mà con lươn không kéo, lại thò vào tận trong đớp thằng Việt, vậy là nó đúng là chưa chết, và nó nhớ rõ mặt từng người trong trận vây nó năm xưa. Khi chúng tôi về đến làng thì nhà cậu B lại có chuyện, không thể ngờ là kẻ năm xưa giờ đã trở lại.