CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM - DƯƠNG - Chương 13
CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 13
Có gì của ta đâu?
Từ thân thể đến đầu.
Có gì của ta đâu?
Sao cứ mãi sầu đau.
Có gì của ta đâu?
Một khi thân tứ đại,
Tan rã sẽ về đâu?
Tan rã sẽ về đâu?
Sao cứ mãi âu sầu,
Một khi hơi thở dứt,
Chút nghiệp nặng dâu bể,
Sao cứ mãi âu sầu.
Một khi hơi thở dứt,
Chút nghiệp nặng dâu bể,
Có gì của ta đâu?
Sao cứ chấp mong cầu?
Có gì của ta đâu?
Sao cứ mãi sầu đau.
Có gì của ta đâu?
Một khi hơi thở tận,
Trăm chấp nặng chìm sâu.
Tối hôm đó, khi bốn người (Thực ra chỉ có 2 người và 2 ma) về đến nhà. Bước vào tới cửa nhà, nhìn bàn thờ Tổ bị đổ nát tan hoang, tượng Phật, tượng Thần nát tan vỡ, chiếc khăn Ấn màu đỏ bị cháy quá nửa. Bà Bảy nằm chùm mền trong góc nhà, mặt bà sạm đen và có những lằn xanh chạy như những lằn roi trên thái dương. Cả khu trước nhà nay đổ nát, lá mái , kèo cột tan hoang. Ngoài sân, chiếc quan tài màu đỏ gác lên hai chiếc ghế, đèn nhang quắc sáng. Một vòng hoa rừng làm vội được đặt ở phía đầu quan tài. Hơn một chức đệ tử của ông thày Bảy, chỉ còn một hai người bị thương nhẹ, cố gắng gượng dậy để lo việc nhà. Số còn lại đều phải nằm trên võng hoặc trên giường để mọi người trị thương. Ông Bảy lúc này khuôn mặt đen sậm, lầm lỳ không nói một câu nào. Còn thày Chàm đang ứa hai dòng nước mắt đầy thù hận.
Hai ông Thầy liền bước đến chỗ bà Bảy, đỡ bà ngồi dậy. Bà Bảy nhìn ông Bảy cũng ứa lệ. Hai người đỡ cho bà Bảy ngồi theo thế kiết già, người một đằng trước, một người đằng sau, họ cùng xòe cả hai bàn tay hướng về công vận bà Bảy.
Giọng ông Bảy trầm hùng đọc chú:
“THOÁI LA TÍT RA,
MẶC CA RÂY
LA MÍT TẶT LÔ MÍT , CẠC SI SÊ.
MẠC MO RAY TỐT TÍT.
SAY RI PHU MI NA SÁT NÁT.”
Phía bên kia, ông thay Chàm cũng đã sang sảng:
“Phật Tổ – Lục Tổ chứng minh.
A CA RÂY DANH MẮC.
A LĂNG PHĂNG MẮC MẮC.”
Đó là hai ông thầy đang vận khí chân, dùng Vô Vi Pháp gọi là Phật Khí Công để tụ nội ngoại lực Khí, đả thông kinh mạch và trục chất độc ra cho bà Bảy.
Một lát sau, toàn thân bà Bảy mồ hôi đổ ra như tắm, trên đầu một làn sương trắng cứ bốc cao dần lên gần tới nóc nhà. Những đường gân xanh trên mặt bà Bảy mất dần, mặt bà đỏ hồng trở lại. Mãi một lúc sau hai Thày mới thu chân khí và ngồi điều tức. Bà Bảy đã khỏe hẳn trở lại.
Suốt đêm hôm đó, hai Thày liên tục vận chân khí, trị thương cho các đệ tử của mình. Khi người đệ tử cuối cùng trị thương xong, vừa lúc ánh mặt trời ló rạng ở hàng tre trước mặt.
Một lúc sau, phường Bát âm lục tục kéo đến, tiếng đờn cò, tiếng mõ, tiếng nỉ non của cây nhị tạo thành một dàn hợp sướng đầy bi ai, thống thiết. Người ta đi kéo về một chiếc thuyền Bát Nhã và khênh quan tài người Trưởng Tràng đặt lên đó. Một chén cơm trắng vung đầy, có quả trứng và cây đũa bông đặt ở trên. Dàn nhạc lễ đi trước, mọi người lầm lùi đi sau thuyền Bát Nhã. Không có một tiếng khóc, chỉ có những làn môi mỉm chặt và những ánh mắt rực lửa căm thù.
Khi những viên đất đầu tiên được ném xuống mộ, thày Bảy thay mặt tang gia nói với mọi người: Thưa tất cả các bà con cô bác, các anh chị em. Thằng đệ tử ruột của tôi, vì bảo vệ bàn thờ Tổ Thầy và các huynh đệ đồng môn, đã phải ngã xuống vì sự ác độc tột cùng của lão Thầy Chàm. Vẫn biết, oán thù nên cởi chứ không nên buộc. Song tôi thiết nghĩ, Lão Chàm đã gây ra nhiều tai họa cho mọi người. Oán thù ngút ngàn. Lão đáng ngàn kiếp phải đọa vào Tam Đồ, để khỏi gây tang tóc cho mọi người. Vì cuộc sống bình yên của mọi người, nay tôi quyết trừng trị Lão.
Lúc này tất cả mọi người đều đồng thanh: Quyết tâm tiêu diệt lão Thầy Chà. Những cánh tay giơ lên trời cao, hứa hẹn một lời thề quyết tử. Bỗng nhiên, từ trên không trung,một tràng sấm nổ , ánh sáng lè xanh, phóng phóng qua lại trên bầu trời ảm đạm. Người và Trời đã tương thông với nhau.
Từ đầu đến giờ, ông thay Chàm vẫn lặng thinh bất tận. Tiếng sấm làm ông như chợt tỉnh lại. Đốt nguyên cả bó nhang, cắm lên mộ người Trưởng tràng, ông đọc bài văn tế ướt đẫm nước mắt:
“Vui mộng đêm qua chợt trở mình,
Như còn phảng phất mấy lời kinh .
Tân hồn muôn kiếp bơ vơ khóc.
Xin được quỳ nghe kể hữu tình.
Muôn vàn hồn đau lớp lớp về,
Oan từ xa lắm, khổ lê thê.
Theo mây chẳng chở – Nhà không, chứa
Phảng phất đêm nay khóc tỉ tê.
Nếu chết cho người được mến thương,
Cũng vui trong định luật Vô thường.
Còn hơn gửi xác – Đời vô nghĩa.
Cô độc oan hồn lạnh thấu xương.
Tất cả về đây nguyện một lời,
Cầu xin siêu độ cõi chơi vơi.
Xin tình thương xót làm hơi ấm ,
Là phép mầu vi xóa hận đời.
Có những oan hồn đến với ta,
Ngậm ngui khóc, kể chuyện đời qua.
Xin thương, dìu độ cho con trẻ,
Trong cảnh trầm luân lạc nèo tà.
Cũng có oan hồn muốn hiện hình.
Đền ơn báo oán – Ứng linh oai.
Nghiệp nhân – chứng quả ta khai ngộ,
Nhờ đức từ bi xóa tội hình.
Từ đấy khi ta muốn xuất thần,
Tiêu dao hồn Phách hiện chân thân.
Một vui với cõi đời vô hiện
Còn một lo siêu độ với trần ”
Đọc xong bài văn tế, ông khóc thảm thiết rộng lên … hu hu hu. Nhìn ông thày Chàm nực nở khóc, không một ai không bùi ngui, xao xuyến vì cảnh đời éo le trong cõi vô thường này.
Một cái Tết nữa sắp đến trên đất Tây Ninh. Khác với miền Bắc, càng gần Tết, trời càng nắng chang chang và vì đang ở giữa mùa khô nên cái nắng lại càng gay gắt. Trên vùng đất Châu Thành lúc này đang rộn ràng vào mùa thu hoạch mía, mì và các loại cây ăn trái khác. Các đường lò mở ra khắp nơi và hoạt động hết công suất. Những chảo nước mật mía vàng óng đang sôi sùng sục phả ra một mùi thơm thật quyến rũ. Những cặp trâu kéo máy ép mía vẫn đi chậm rải thành những vòng tròn bất tận, những núi xác bã mía trắng xóa phơi đầy các con đường đá đỏ. Từ sáng sớm tinh mơ, những chiếc xe lôi chở công chặt mía đầy lặc lè thi nhau chạy vào những động mía ngút ngàn. Những cô gái mặt bịt kín khăn che mặt, xách theo những cặp lồng cơm , nước uống ,cười đùa rực rích trên xe. Thông thường, những người đi chặt mía là làm công đứng, tức là làm liền một lèo từ sáng sớm cho tới gần 2 giờ chiều mới nghỉ. Do vậy họ phải thức dậy từ 3g sáng, nấu cơm, ăn vội vàng, chuội chập, rồi tay dao, tay cầm cơm, nước ra điểm tập trung để xe lôi chở vào động mía. Thường là từ nhà đến nơi chặt mía phải đi hơn chục Km. Nắng Tây Ninh và những lá mía sắc như dao, đầy lông ngứa tha hồ hành hạ những người làm công. Chính vì vậy, người nào người ấy phải mặc quần áo dài và kín bó chân tay. “Tây Ninh nắng cháy da người”. Cả một ngày làm quần quật như vậy, nhưng họ chỉ được trả công với giá cực kỳ rẻ mạt. Những lúc khỏe và có việc làm thì còn đỡ, những lúc đau ốm, không làm việc là họ phải đi vay với giá cắt cổ để mua gạo, mua thuốc. Đây chính là thời cơ cho những con mẹ cho vay cắt cổ người ta hút máu của họ. Lãi suất thường là 30% tháng, nếu tháng nào không trả lãi là lãi mẹ lãi con chồng tiếp. Chả thế mà dù lao động cực kỳ vất vả, nhưng nhà cửa của họ vẫn sơ xác, cuộc sống của họ vẫn đói nghèo triển miên.
Tận cùng của một trảng mía khu vực Bến Trường là một cánh rừng chồi mọc vòng vèo ven một con suối nhỏ. Mùa này, dòng suối chỉ còn là một vết nước bé tý, cố ngoi ngóp ra khỏi cánh rừng. Tại một khoảng lớn của đất rừng chồi, người ta thấy có 3 Cái lán bằng cây lợp tranh khá vững chắc. Ba cái lám quay đầu vào nhau tạo thành một chữ U, mà ở giữa là một cái sân đất nện rộng . Vì là ở tận cùng của động mía, nên khu vực này hầu như không có mấy người ghé thăm. Năm thì mười họa, một vài công chặt mía, có thể ghé vào xin nước mà thôi. Có lần, một người thanh niên sau khi xin nước, tò mò đi ra dòng suối phía sau lán, vừa băng qua mấy vạt cây trồng thành hàng giống như những bụi rau, chợt sùi bọt mép và ngã lăn ra đất. Những người đi theo vội đỡ lên, cõng về nhà. Chỉ trong vòng 3 ngày sau, thân thể anh ta trương lên đầy ứ chảy ra nước vàng từ những lỗ chân lông. Từ thân thể anh ta bốc ra một mùi xứ uế, khăm khẳm và anh ta phải chết trong đau đớn với những tiếng gào thét điên cuồng. Từ sau cái chết đó, những người chặt mía, tuy không biết nguyên nhân rõ, song không ai bảo ai, đều tránh xa khu vực lán quái dị đó. Các ông Thầy ở khu vực đến xem và bảo anh ta đều chết vì Khí Ngải. Thày có những hiểu biết nói rằng, anh ta đã vô tình đi qua những bụi Ngải cực độc mà từ xưa nay ở khu vực Tây Ninh không hề có.
Có gì của ta đâu?
Từ thân thể đến đầu.
Có gì của ta đâu?
Sao cứ mãi sầu đau.
Có gì của ta đâu?
Một khi thân tứ đại,
Tan rã sẽ về đâu?
Tan rã sẽ về đâu?
Sao cứ mãi âu sầu,
Một khi hơi thở dứt,
Chút nghiệp năng dâu bể,
Sao cứ mãi âu sầu.
Một khi hơi thở dứt,
Chút nghiệp năng dâu bể,
Có gì của ta đâu?
Sao cứ chấp mong cầu?
Có gì của ta đâu?
Sao cứ mãi sầu đau.
Có gì của ta đâu?
Một khi hơi thở tận,
Trăm chấp nặng chìm sâu.
Có gì của ta đâu?
Có gì của ta đâu?
Có gì của ta đâu?
Tất cả là hư ảo.
Tình nghĩa cũng trôi mau.
Trong đêm đen của rừng già Tây Ninh, tại khu vực rừng chồi của Bến Trường, hai bóng đen lầm lũi đi trong yên lặng thoảng đâu đó rực tiếng cú, tiếng ri rào của cành lá chạm nhau vào cái giá lạnh của những ngày giáp Tết. Hai bóng đen phóng như rất nhanh dùng thuật Khinh công, lướt nhẹ trên những thảm cỏ, qua những lùm cây . Sau khoảng một tuần nhang, họ đã đến khu vực có 3 cái lán dựng hình chữ U trong khoảng rừng. Hai người dừng lại bàn tính nho nhỏ. Tới đây, chắc các bạn cũng đoan ra hai cái bóng đen đó là ai rồi. Thật vậy, là chính họ thày ông Bảy và ông thày Chàm đang thực hiện nhiệm vụ mà họ từng ấp ủ bao lâu nay. Từ chiều, bà Bảy và lũ Đệ tử đòi theo, nhưng hai người rất khoát không đồng ý. Họ muốn dùng chính những tuyệt học của mình đã nhận từ lão Quái nhân trong động để tiêu diệt lão thày Chà . Bà Bảy và lũ học trò chỉ còn biết im lặng và ngồi nhà lo lắng cho trận chiến cuối cùng này. Một linh cảm bất an dâng đầy trong lồng ngực bà. Chậm dãi, bà Bảy thắp mấy nén nhang trên bàn thờ Tổ cầu xin cho hai người được bình an về, thắng trận trở.
Tại bản doanh của lão Thày Chà (đến đây, chắc bạn đọc cũng đã biết khu vực 3 cái lán hình chữ U, chính là nơi lão thày Chà cư ngụ), không một ánh đèn, tất cả như chìm vào trong một lớp sương mù ma quái. Ẩn sau cái vẻ yên bình đó là một cơn cuồng phong đầy chết chóc sắp sửa phát động. Hai ông Thầy dùng Kinh công, phóng vọt vào giữa khu đất hình chữ U và đáp xuống nhẹ nhàng. Chân vừa chạm đất, bỗng nhiên thấy cả hai Thày khu đất như rung chuyển và xoay tit . Ngay sau đó là những mũi tên lửa từ 3 cái lán bắn ra sáng rực cả Trời đêm. Một tràng trống trận lập tức dồn vang và những tiếng đọc chú từ các ngôi lán ra vàng: “Cam Cò Cây, Cam Mạnh Mạnh, Cam Hanh Phanh, Cam Manh nganh, Cam Mây nganh, Cam Sắc Xi, cam So rẹc , Cam Chuốt, Cam Phượt … Bờ Ri Ti Ti Tích Nac, Bờ Ri Tích Ti Na Nac, Phắc Cư Bờ rích Nac, Sắc Phích Phổ Nac, Ô Mạc Mười Ka Bơ Ra, Quýt Sơn Mạnh Mạnh Lơn.. .. ”
Hai Thầy vội vàng mượn một gốc cây cụt, đề chân Khí vọt thẳng lên không trung. Thật là phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí, khi hai Thầy đang lơ lửng trên không thì một làn khí tanh hôi từ phía đầu họ giáng xuống như điện . Thấp thoáng trong ánh lửa, hai con rắn Thần nhe hàm răng nhọn hoắt phóng thẳng xuống đầu họ. Không chậm trễ một giây, ông Thầy Chàm phóng đôi cổ kiến cắm thẳng xuống nền đất và hai người liền mượn chuôi kiếm làm điểm tựa phóng thẳng ra ngoài trận chiến. Một hồi cồng nữa lại vang lên, những luống Ngải bên hông nhà từ nay giờ vẫn im lìm , bỗng như dựng đứng dậy cả, chúng xoay quanh cuộc đất hai ông thầy đứng và phun ra một làn sương độc dày đặc . Hai Thày vội bế chân khí, không để những làn hơi độc xâm nhập vào lục phủ ngũ tạng của mình.
Thầy Chàm dùng một ngón tay, điểm vào đám Ngải đang xoay cao giong đọc chú: “Tả chuyển Càn – Khôn động, Hữu chuyển Nhật – Nguyệt linh, Nhất họa lan yếm sấm, Nhất điểm Quỷ – Thần kinh, Ngô thỉnh Lỗ ban lệnh, Cấp kỳ trợ cấp linh … ”
Thật lạ lùng, chỉ sau có mấy chỉ, đám Ngải bỗng rạp theo nhau rũ xuống đất, sơ xác.
Từ phía trong lán, hồi một cồng nữa vang lên cùng nhịp dồn dập đọc chú: “E hế mê bray cô ma dan mặc mặc … E hế no ni quan sắc nha thô … Mô ni cô mô ni ra ma, bud kinh bởi chồi thăn, ban bách săn khăn ban bách … E hế mới nếu bà tá, Nac mô đặt thia dac … Mê bạn rồi ú ”
Ngay lập tức, từ trong một căn lán vọt ra hình bóng lão thày Chà. Lúc này Lão trông thật đáng sợ, hai con mắt vằn đỏ phóng ra những ánh hào quang xanh lét, tay lão cầm hai đoàn thanh kiếm cổ có hình thù kỳ quái, ánh thép xanh đến lạnh người. Lão cất lên một tràng tiếng cười u ám và cao giọng: “Bộ các ngươi chán sống rồi hay sao mà dám xâm nhập vào địa phận của ta . Ngày này sang năm là này giỗ đầu của hai nhà người đó.”
Vừa thấy bóng Lão Thày Chà, ông thày Chàm liền tung mình lên vọt lên chặn đứng trước mặt hắn . Xòe rộng đôi bàn tay, đẩy lên phía trước, một làn sóng xung kích ào tại tuôn ra từ hai bàn tay Ông. Sửng sốt, lão thày Chà nhảy sang cạnh bên, theo đà,luồng sóng xung kích bắn thẳng vào một căn lán . Rầm … lập tức cả cái lán tan vỡ, lả tả rơi xuống.
Thất sắc lão thày Chà lâm râm đọc: “Bis mi la hiện rót mal nia rót ông Ol Lót hum mà để ly, A xây la di đi na Mô Hàm Mạch”
Ngay lập tức đôi kiếm cổ rời khỏi tay lão, nhằm hai ông thày tới phóng. Và cũng gần như tức thì, một luồng lực từ lòng bàn tay thày Chàm phóng vào đôi kiếm trận còn đang đóng đinh trên sân. Luồng công lực này nhổ phẳng đối kiếm và phóng chúng đón đầu hai thanh kiếm của lão thày Chà . Một tiếng xoảng cực lớn, hai cặp kiếm đập vào nhau và bắn tung lên không trung. Bây giờ ông mới thấy thày Bảy phóng vào trận và chặn đứng trước mặt lão thày Chà. Người ông Bảy xoay tit như chong chóng, tiếp cận lão thày Chà , dùng một đòn cần chiến , hai bàn tay ông Bảy vung ra. Một làn kinh phong cuốn thẳng vào ngực lão thày Chà , vì cự ly ngắn quá, không kịp trở tay, lão thày Chà bắn tung lên không. Bên kia, ông thày Chàm một phát luồng khí, điều khiển cặp kiếm cổ phóng thẳng vào người lão thày Chà . Xoạt, sắc như nước, đôi kiếm cổ bay ngang qua người lão thày Chà còn đang lơ lửng trên không . Đường kiếm sắc ngọt, cắt lão thày Chà làm ba mảnh, hai chân rơi xuống trước, rồi đến đôi tay, cuối cùng là cái thân cụt lủn của Lão đè gọn lên trên. Hai người vội phóng lại gần xem Lão chết chưa . Thày Bảy dùng hai tay lật ngửa thân lão Thày Chà lên xem. Chỉ một tích tắc bất cẩn, đôi mắt lão nhắm nghiền bỗng mở ra độc ác, đôi môi Lão mấp máy đọc chú lần cuối: “Na mô buôtha dụng thế ú vậy há mạ mạ ú da sa mi pí”, lập tức thanh kiếm của thày Chàm vừa rơi cạnh Lão bay bổng lên vút thẳng vào ngực của Bảy đâm tới và cũng gần như tức thì, ông thày Chàm gạt thày Bảy sang một bên. Xoạt, đường kiếm sắc lẻm đi qua cánh tay của thày Chàm . Ông thày Chàm gục xuống, trên cánh tay lặc lia máu tuôn xối xả. Bên kia, lão thày Chà cũng giật lên mấy cái và nằm bất động. Trên môi Lão còn như vương một nụ cười ác độc.
Ngoài kia, phía lòng hồ Dầu Tiếng, ánh mặt Trời đang từ từ dâng lên …..