Bóng ma thổi đèn - Chương 2:
Vào truyện Trộm mộ chẳng phải việc tham quan ngắm cảnh, chẳng phải ngâm thơ câu đối, chẳng phải thêu hoa dệt vóc, không thể nhã nhặn khiêm nhường, không thể ung dung nhàn tản, chẳng thể tuần tự theo tôn ti “thiên địa quân thân sư” cho được. Trộm mộ là một thứ kĩ thuật, một thứ kĩ thuật phá hoại. Tự thủa xưa, khi các quý tộc xây dựng lăng mộ, ắt đã tìm đủ mọi cách để phòng ngừa trộm cắp, vậy nên hẳn là có bao nhiểu thủ đoạn cũng đã dùng hết cả rồi, trong mộ thường sắp đặt đủ loại cạm bẫy ám khí, nào đá tảng, cát trôi, nào tên độc, rắn rết, hố chông…nhiều không kể xiết. Đến đời nhà Minh, chịu ảnh hưởng của kỹ thuật phương Tây, một số ngôi mộ lớn thậm chí đã sử dụng cả hệ thống bánh răng ròng rọc của phương Tây, đặc biệt là lăng của các hoàng đế nhà Thanh, có thể coi là những kiệt tác gom thâu kỹ thuật phòng trộm của mấy ngàn năm cũng xứng. Đại quân phiệt Tôn Điện Anh muốn khai quật Đông lăng để lấy vàng bạc sung vào quân phí, đã huy động cả một đội quân, vừa đào bới vừa nổ mìn cũng phải mất năm sáu ngày trời mới xong, độ kiện cố của mấy lăng ấy thế nào chắc không cần nói cũng có thể mường tưởng ra được. Bài toán dành cho những kẻ trộm mộ thời bấy giờ là phải nghĩ ra trăm phương nghìn kể phá giải những cạm bẫy đó, đề vào mộ tìm kiếm báu vật. Thế nhưng hiện nay, việc tìm ra mộ cổ còn khó hơn việc khai quật mộ nhiều lần, những ngôi mộ lớn xây theo kiểu đắp nấm dựng bia rõ ràng thì đã bị người ta đào bới gần hết từ lâu rồi. Còn nếu muốn tìm mộ cổ đã vùi sâu trong lòng đất nhiều năm, lại không có dấu mốc gì trên mặt đất, thì phải cần đến một số kỹ thuật nhất định cũng như vài thứ công cụ đặc biệt, các loại như khoan sắt, đinh tre, xẻng Lạc Dương, thám âm trảo, hắc triết tử, toàn địa long nhất loạt đều từ đây mà ra. Ngoài ra, cũng có một số cao thủ lại không dựa vào mấy thứ ấy, có người tìm mộ bằng cách lần tìm đầu mối được ghi chép trong thư tịch cổ xưa, cũng có một số rất ít người hiểu được bí thuật, có thể tìm ra mộ huyệt bằng khả năng xem phong thủy, đọc mạch tương đốicủa đồi núi sông ngòi, bản thân tối chính là thuộc loại cuối cùng này. Tôi đã đặt chân qua khắp mọi nẻo đường, trải qua vô số chuyện ly kỳ quái dị, nếu đem kể từng chuyện ra, chắc hẳn sẽ khiến kẻ thấy kinh hồn, người nghe bạt vía, nói cho cùng thì những sự tích lấp biển lật sông, xẻ đất che trời, hình rồng tướng hổ như vậy kể ra đâu cũng phải tầm thường. Những sự tích ấy bắt đầu phải kể từ cuốn sách cũ Thập lục tự Âm dương Phong thuỳ bí thuật ông nội tôi để lại, cuốn tàn thư này, chẳng biết cớ gì mà nửa cuối lại bị người ta xé toẹt đi rồi, chỉ còn lại phần đầu viết về bí thuật phong thuỷ. Những điều trong sách, quá nửa là các bí thuật độc môn để đọc hiểu bố cục phong thuỷ của mộ táng… Chương 1: Ẳ NGƯỜI GIẤY VÀ ANH BẠN CHUỘT Nội tôi tên gọi là Hồ Quốc Hoa. Tổ tiên nhà họ Hồ là địa chủ có tiếng trong vùng, vào thời huy hoàng nhất đã từng mua hơn bốn mươi gian nhà liền kề nhau ở ba con ngõ trong thành, trong họ cũng có người làm quan, có người đi buôn bán, cũng từng quyên tiền hỗ trợ công việc tào vận và cung cấp thóc lúa cho triều đình Mãn Thanh. Tục ngữ có câu: “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời” kể cũng đúng thật, trong nhà dù có núi vàng núi bạc, thì cũng không trụ được khi có những đứa phá gia chi tử chỉ biết ăn tàn phá hại. Đến những năm Dân Quốc, Hồ gia truyền tới đời ông tôi thì gia đạo suy vi, thoạt tiên là chia nhà, gai sản chia cho ông cũng không ít, đủ để ăn no mặc ấm suốt đời, thế nhưng ông lại không chịu học điều hay lẽ tốt, đương nhiên điều này có ảnh hưởng đến hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, trước thì say mê cờ bạc, sau lại nghiện Phúc Thọ cao 1, cuối cùng cả gia tài bị ông đem tiêu cho sạch bách. Thời trai trẻ hút hít ăn chơi, không tệ nào ông không phạm, cuối cùng thì quẫn đến nỗi một cắc chẳng còn. Người ta một khi đã lên cơn nghiện thì vò ruột bứt gan, sao mà nhịn nổi, nhưng không có tiền thì ai cho ông hút? Trước kia lúc có tiền có của, từ thằng chủ cho đến con hầu trong ổ hút hễ thấy ông là xoen xoét gọi “Hồ đại gia”, tiếp đã ân cần chu đáo lắm, nhưng đến khi không xu dính túi, thì chúng coi ông là thằng ăn mày, chúng vừa chửi vừa mắng và đánh đuổi, hắt ông như thể hắt hủi vậy. Người ta nhược bằng túng quẫn quá, thì mấy mớ quan niệm về đạo đức liêm sỉ cũng có sá gì, nội tôi cũng nghĩ được một cách, đi lừa tiền ông cậu. Cậu của ông tôi biết ông là thằng nghiện ngập phá gia chi tử, thường ngày thì một hào một cắc chẳng cho, nhưng lần này ông phỉnh cậu, bảo rằng sắp lấy vợ, xin cậu gom cho ít tiền. Ông cậu nghe nói vậy, xúc động đến nỗi nhạt nhoà nước mắt, thằng cháu bất hiếu giờ này mới con như cũng làm được một việc tử tế, nếu kiếm được một cô cháu dâu hiền đức trông coi nó cẩn thận, dạy dỗ nó có khi về sau lại khá lên cũng không chừng. Vậy là ông cậu đưa nội tôi hai mươi đồng Đại Dương, dặn rằng lấy vợ thì sau phải sống cho đàng hoàng, chớ dính vào Phúc thọ cao nữa, để mấy hôm nữa rảnh, ông sẽ đích thân tới nhà xem mặt cháu dâu. Ông nội Hồ Quốc Hoa của tôi có rất nhiều trò ma mãnh, đễ đối phó với cậu, sau khi về nhà, ông liền vào thôn tìm một tay thợ chuyên làm mấy thứ người giấy, ngựa giấy (chính là loại để đốt cho người chết). Lão thợ này tay nghề rất cao, chỉ cần là thứ có thể tả được là lão có thể làm ra giống hệt như thế. Theo yêu cầu của ông nội, lão hàng mã làm ra một cô gái bằng giấy phết hồ, sau đó dùng màu nước vẽ lên lông mày, mắt, mũi, áo quần, đầu tóc, nhìn từ xa, thì ôi thôi, trông giống y như người thật vậy. Ông nội tôi cõng người giấy về nhà, đặt vào giường trong, lại đắp chăn lên, trong bụng tự lấy làm yên tâm lắm, đợi mấy hôm nữa ông cậu đến, thì cứ viện cớ vợ ốm, nằm liệt giường không thể tiếp khách, để ông cậu đứng nhìn từ xa là được. Ngắm thấy đắc ý, ông bất giác hát rống lên vài câu, rồi chuồn luôn vào thành hút thuốc. Mấy hôm sau, ông cậu quả nhiên đến thật, lại còn mua vải vóc bánh trái thăm cô cháu dâu, nội tôi mang những lời nhẽ đã toan tính từ trước ra lần lữa thoái thác, than rằng vợ không khoẻ, không tiếp khách được, rồi vén rèm để cậu đứng ngoài nhìn, sau đó lại lập tức buông ngay. Ông cậu không vừa lòng, mới nhủ, cái thằng ranh con này lại đối phó với cậu mày như thế à? Không được! Hôm nay dứt khoát phải gặp được cháu dâu mới thôi, có bệnh thì cho tiền mời thầy lang đến chữa! Ông nội sống chết níu ông cậu lại không cho vào, nhưng càng níu kéo thì ông cậu càng sinh nghi, đôi bên cứ thế co kéo, cuối cùng không ngăn được, ông cậu chạy xộc vào nhà trong, vừa nhìn lên giường, suýt nữa thì chết khiếp, một bộ mặt đàn bà trắng bệch, còn phết đỏ tròn hai má, đôi mắt trợn ngược, nhìn thẳng lên trần nhà, rõ ràng là một ả người giấy. Mùa xuân năm ấy đã xảy ra rất nhiều chuyện, vụ ông Hồ Quốc Hoa mua người giấy gạt tiền bại lộ, ông cậu giận quá hoá bệnh, không ngồi dậy nổi, chưa đến ba hôm thì rũ áo chầu trời. Họ hàng bè bạn của Hồ gia, ai cũng phòng nội tôi như phòng trộm, chớ cho vay tiền, ngay đến cơm thừa cũng không cho ông lấy một miếng. Ông đành bán nốt đôi tủ gỗ đàn lấy hai đồng bạc, chiếc tủ này là của hồi môn của cụ bà, ông vốn định giữ lại để tưởng niệm, chưa nỡ đem đi cầm, nhưng khi cơn nghiện đã phát tác, thì cũng không còn nghĩ ngợi được nhiều thế nữa rồi. Cầm hai đồng bạc ấy đi mua một dúm Phúc thọ cao, chạy về nhà liện vội vã sà vào giường châm điếu thuốc hít mạnh hai hơi, cơ thể bỗng dưng nhẹ bẫng, tựa hồ như đang chấp chới trên mây. Lúc ấy, ông cảm thấy sướng như lên tiên, dăm ba cái chuyện bị người ta khinh rẻ, ức hiếp, rồi bị mắng bị chửi hàng ngày đều vặt vãnh cả. Hít thêm hai hơi tiếp, ông bỗng phát hiện ra năm trên cái giường nát bươm của mình còn có một đống đen đúa xù xì, nhìn lại cho kỹ, hoá ra góc giường có một con chuột cống to tướng đang chồm hỗm. Con chuột này ý chừng phải sống lâu rồi, ria mép nó đã trắng cả, mình nó phải xấp xỉ con mèo. Nó đang nẳm hít thứ khói bốc ra từ tẩu thuốc của Hồ Quốc Hoa, dường như cũng biết đến lợi ích của thuộc phiện, lỗi mũi cứ khịt khịt tham lam tận hưởng. Nội tôi bỗng thấy hứng thú lắm, quay ra bảo con chuột: “Mày cũng nghiện thuốc hả? Xem ra tao với mày là người đồng đạo rồi.” Nói đoạn ông lại hút một hơi, rồi phả thứ khói nồng nặc ấy vào con chuột, con chuột dường như biết ông tôi không có ác ý, cũng chẳng sợ ông, bèn nghển cổ đón lấy làn khói đặc đương phả vào mình. Quá trưa, dường như đã thoả mãn được cơn nghiện, con chuột cũng lững thững bò đi. Mấy ngày liền đều như vậy, hôm nào con chuột cũng bò đến cùng hít thuốc với ông nội, ông tôi đi đâu cũng bị người ta khinh miệt, chung quanh chẳng có lấy một tấm bạn tâm tình, thấy con chuột quần mình như vậy đâm ra thích chí, có lần con chuột đến hơi muộn, ông cũng gắng nhịn cơn nghiện mà chờ nó. Thế nhưng niềm vui ngắn ngủi chẳng tày gang, nhà ông nội bây giờ chỉ còn lại chiếc giường trơ và bốn bức tường, chẳng còn đồng nào mà mua thuốc nữa, ông ủ rũ vì hết cách, than thở với con chuột: “Chuột ơi chuột à, hôm nay là ngày cùng tháng kiệt rồi, chẳng còn tiền mua Phúc thọ cao nữa đâu, e rằng chẳng được cùng mày ngửi lại cái mùi nồng nàn ấy nữa.” Nói dứt ông cứ sụt sịt không thôi. Con chuột nghe những lời ông nói, hai mắt long lanh chớp chớp như nghĩ ngợi gì, rồi bỗng quay ngoắt bỏ đi. Đến khi trời tối, nó ngậm một đồng tiền bạc quay về nhà bên cạnh gối ông nội, ông nội vừa mừng rỡ lại vừa kinh ngạc, liền chạy cả đêm vào thành mua lấy một miếng Phúc thọ cao, về nhà là đốt ngay bên đèn, cùng con chuột hút một trận đã đời no sướng. Ngày hôm sau con chuột lại ngậm ba đồng bạc tha về, ông nội mừng rơn khôn tả, nhớ lại một điển cố được học từ thời còn trong trường tư thục trước đây, bèn nói với nó: “Kẻ biết Quản Trọng, chính Bào Thúc Nha đó vậy, nay người biết ta bần hàn mà hậu đãi ta, thật là tri kỉ của ta vậy, nếu chẳng chê bai, chúng ta hãy kết nghĩa kim lan đi!” Từ đó ông với chuột xưng huynh gọi đệ, gọi là “anh chuột”, ăn uống cùng chia, thuốc hút chung hưởng, lại còn làm cho con chuột cái ổ bằng bông, để nó cùng ngủ trên giường. Người chuột nương tựa, như đôi bạn tâm đầu ý hợp, con chuột hàng ngày đều đi tha bạc về, ít thì một hai đồng, nhiều thì bốn năm đồng, từ đó ông nội chẳng còn gánh lo cơm áo nữa. Bao năm về sau, mỗi khi nội tôi nhớ lại, vẫn nói rằng những chuỗi ngày ấy là quãng thời gian vui sướng nhất đời ông. Bẵng nửa năm trôi qua, ông tôi ngày một giàu có nhưng trớ trêu thay chẳng phải có câu “Giàu sang gặp thầy bạn vàng, sa cơ lỡ vận gặp toàn tiểu nhân” đó sao, cũng chỉ biết trách cái số ông nội Hồ Quốc Hoa của tôi là số nghiệp số hạn, bị một thằng tiểu nhân nhòm ngó. Trong thôn có thằng vô lại Vương Nhị, thằng này đâu bì được với ông tôi, ông nội chí ít cũng từng giàu có, dù gì cũng từng là “Hồ đại thiếu gia” ngót nghét hai chục năm, còn thằng Vương Nhị kia thì đâu có cái phúc ấy, tổ tiên tám đời nhà hắn kể cả hắn bây giờ đều chưa từng mặc nổi cái quần nào lành lặn. Vương Nhị thấy ông tôi gia nghiệp suy bại thì “cháy hàng xóm, vỗ tay reo mừng”, thỉnh thoảng lại vô duyên vô cớ bức hiếp làm nhục ông nội, bắt nạt Hồ đại thiếu gia năm xưa mấy phen cho hả dạ. Gần đây Vương Nghị lấy làm lạ, ông tôi là một tên nghèo đói chẳng có công ăn việc làm, đồ đạc lại đều đem đi cầm cố cả, ngay đến họ hàng thân thích cũng đã chết gần hết, chẳng hiểu cớ gì mà vẫn hút thuốc được như thường? Tiền mua thuốc lấy đâu ra? Hắn bèn nghĩ bụng: nói không chừng thằng ấy lại đi ăn trộm. Ta phải rình nó xem sao, đợi lúc nó thó đồ nhà người ta, mình bắt quả tang rồi báo cho quan phủ, kiếm mấy đồng Đại Dương tiền thưởng cũng tốt. Thế nhưng rình một thời gian, phát hiện ông nội ngoại trừ những khi thi thoảng vào thành mua đồ ăn và thuốc hút, thì căn bản là không bước chân ra khỏi cửa, mà cũng chẳng qua lại với bất kỳ người nào. Càng tò mò muốn biết tiền ở đâu ra, Vương Nhị lại càng thấy bứt rứt không yên. Một hôm, nhân lúc ông nội ra ngoài mua đồ, Vương Nhị thừa cơ trèo tường nhảy vào nhà trong, lục lọi mọi nơi gầm bàn hốc tủ hòng tìm ra xem ông tôi rốt cuộc có bí mật gì. Đột nhiên nhìn thấy trên giường có một con chuột to xù đang ngủ, hắn bèn tiện tay vất luôn vào trong siêu nước đang đun trên lò, sau đó đậy nắp lại, nghĩ bụng họ Hồ kia về nhà uống nước, ta sẽ nấp bên ngoài xem có trò hay ho. Chẳng đợi Vương Nhị chạy ra, ông nội đã về đến nhà, vừa vặn dồn chặn hắn lại bên trong. Vừa thấy con chuột bị luộc chín trong siêu nước, tức thời mắt ông liền đỏ sọc lên, vớ ngay con dao thái rau, chém vào thằng vộ lại họ Vương kia mười mấy nhát. May mà nội tôi là kẻ nghiện ngập, chân tay yếu ớt nên tuy Vương Nhị bị chém trúng mấy nhát dao nhưng cũng không có vết thương nào chí mạng cả, Vương Nhị máu me bê bết khắp người, chạy thục mạng tới đội bảo an cầu cứu, đội trưởng đội bảo an là họ hàng với một tay quân phiệt địa phương, bấy giờ đang mởi tay quân phiệt này nhắm rượu, tên đội trưởng biết tin liền nội giận đùng đùng, giữa ban ngày ban mặt hành hùng giết ngừơi còn coi vương pháp ra gì nữa? Vội sai ngay mấy tên thuộc hạ đi bắt trói nội tôi về. Ông nội bị giải về đồn, tên đội trưởng nạt giọng quát hỏi, cớ sao cầm dao hành hung đòi giết Vương Nhị. Ông tôi nước mắt lưng tròng, khóc nấc kể lại đầu đuôi sự tình, cuối cùng nói với giọng đầy ai oán: “Nhớ khi xưa tôi khốn khổ khốn nạn, không có anh chuột tôi đã chẳng sống được đến ngày hôm nay, nào ngờ chỉ sơ suất một chút đã để anh mất mạng, tuy không phải do tôi giết nhưng anh chuột lai vì tôi mà chết. Tôi mà phụ người bạn hiền dưới chín suối này thì tình nghĩa ở đâu? Một mình tôi làm một mình tôi chịu, đã chém cái thằng không Vương Nhị vậy rồi, giờ muốn phạt muốn giết xin nghe đại nhân phán xử, chỉ xin đại nhân cho tôi về nhà an táng anh chuột, rồi tôi chết cũng nhắm mắt.” Không đợi tên đội trưởng nói gì, tay quân phiệt bên cạnh đã cảm động xuýt xoa, nói với ông tôi: “Mẹ kiếp! Không vong ơn chính là nhân, không phụ lòng tức là nghĩa, đối với con chuột mà còn như vậy huống hồ đối với con người? Ta niệm tình cậu có nhân có nghĩa, giờ lại không chốn nương thân, từ rày hãy theo ta tòng quân làm phó quan đi.” Súng ống là chính quyền, trong thời loạn lạc, lời của kẻ nắm giữ binh quyền chính là vương pháp. Tay quân phiệt ra lệnh cho bọn thủ hạ dùng roi quất Vương Nhị một trận te tua để nội tôi bõ tức, sau đó cho ông về an táng con chuột. Ông tôi trở về lấy hộp gỗ liệm xác bạn chuột, rồi đào một cái hố chôn đi, khóc tỉ tê hồi lâu rồi mới dứt áo đi theo tên quân phiệt kia. Tục ngữ nói hay thật: “Đói thời khoai ráy cũng ngon, no thời xôi thịt bấy còn dửng dưng”. Con ngừơi ta một khi nghèo khổ điêu đứng, người khác dẫu chỉ cho bát cháo, miếng cơm thì hắn cũng cảm tạ ơn đức vô cùng, huống hồ con chuột kia lại mang về cho ông tôi biết bao nhiêu tiền của. Đương nhiên tiền ấy cũng chỉ là tiền ăn cắp, thánh nhân dạy dẫu chết cũng chẳng uống nước trộm dòng, có điều đó là tiêu chuẩn đạo đức của những bậc vãng thánh tiên hiền, cổ nhân còn hiếm người làm được, huống hồ là hạng phàm phu tục tử như Hồ Quốc Hoa! Trước thường nghe hút thuốc trong phòng, lâu ngày chuột ruồi nghiện cả, lời này tình chẳng hề sai chút nào!
Comments for chapter "Chương 2:"
Theo dõi
Đăng nhập
0 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận